Vài Hàng V

Nhc Sĩ Văn Cao

 

 

 

Vancao.jpg

 

 

 

Thiếu thi

 

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Pḥng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xă Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đ́nh viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Pḥng[3]. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường ḍng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, v́ gia đ́nh sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Pḥng, nhưng được một tháng th́ bỏ việc.

Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Pḥng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quư... Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quư cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao c̣n sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như Gió núi, G̣ Đống Đa, Anh em khá cầm tay. Cũng trong thời gian ở Hải Pḥng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đă hát Buồn tàn thu, giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Huế, Văn Cao đă viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, được coi là bài thơ đầu tay.

Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Pḥng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền - và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao c̣n làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy[5]. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lăm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô gái dạy th́, Sám hối, Nửa đêm. Đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận[4]. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của ḿnh trên các đường phố Hà Nội, Hải Pḥng.

 

 

Tham gia Vit Minh

 

Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quư, một Việt Minh mà ông đă quen biết trước đó. Vũ Quư thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đă sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant và đặt tên cho tác phẩm là Tiến quân ca. Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lậptháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đă chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.

Văn Cao tiếp tục tham gia hoạt động trong đội Trừ gian của Việt Minh. Ông viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh, in sách báo, truyền đơn. Vào cuối mùa xuân năm 1945, Văn Cao đă có mặt trực tiếp tham dự vụ ám sát nổi tiếng, đó là vụ giết ông Đỗ Đức Phin tại Hải Pḥng, người bị Việt Minh kết án là Việt gian theo Nhật. Sau vụ ám sát, Văn Cao tạm lánh một thời gian để tránh mật thám Pháp và Nhật theo dơi. Trở về Hà Nội, Văn Cao c̣n tiếp tục tham gia vụ ám sát Cung Đ́nh Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế nhưng không thành công do ông bắn trượt.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và tŕnh bày cho báo Lao Động.

Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một pḥng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận[3]. Ở Lào Cai, Văn Cao c̣n mở một quán bar để làm địa điểm theo dơi[7]. Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp túc sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như Làng tôi (1947), Ngày mùa (1948),Tiến về Hà Nội (1949)... và đặc biệt là Trường ca Sông Lô năm 1947.

Năm 1952, Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Minh Chí th́ chuyến đi này làm Văn Cao "thất vọng về chủ nghĩa cộng sản". Trần Gia Phụng th́ miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm[8]. Một cái được vẽ từ cách nh́n thẳng, một cái được vẽ bằng cách nh́n nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm "Cây đàn chủ nghĩa" mà Văn Cao gửi tham gia Triển lăm Hội họa ở Liên khu III, ông bị quy kết: h́nh thức lai căng, nội dung th́ có vấn đề về tư tưởng.

 

 

Nhân Văn - Giai Phm

 

Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm1956, bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói ǵ"[9]. Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đ̣i hỏi tự do văn nghệ, sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 th́ cả hai tờ báo đều bị đ́nh bản.

Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị[10]. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không c̣n xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhăn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lăng mạn tiền chiến khác, không được tŕnh diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không c̣n sáng tác. Đến cuối năm 1975, ông viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê b́nh là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, v́ thế bản nhạc mới phát hành đă bị tịch thu. Nhưng các chương tŕnh Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho tŕnh bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đă không bị lăng quên.

Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.

Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.

 

S nghip âm nhc

So với hai nhạc sỹ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 các khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: t́nh ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông c̣n viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ...

 

T́nh Ca

 

 

B́a bản nhạc Bến Xuân do nhà Tinh Hoa tái bản lần thứ ba, năm 1954

 

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sỹ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ t́nh, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lăng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông[12]. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đă sử dụng ngũ cung để viết về một h́nh ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông c̣n viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu  Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2.

Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa  Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đă dành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài G̣n trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc c̣n mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lăng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.

Nhưng hai t́nh khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai  Trương Chi. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, Văn Cao tự nhận ḿnh là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đă lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ,Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện,Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này c̣n một đoạn lời nữa mà các ca sỹ thưởng không tŕnh diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... H́nh ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với h́nh ảnh của chính Văn Cao.

 

 

Hùng Ca

 

Ngay từ khi c̣n trong nhóm Đồng Vọng  Hải Pḥng, Văn Cao đă viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện t́nh ái quốc trong G̣ Đống Đa, Ḥ kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông c̣n sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam...

Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ư kiến của Phạm Duy, Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam.

Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừ Tiến quân ca, không được tŕnh diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài g̣n như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn tŕnh diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng ḥa.

 

 

Ghi Công

 

Một năm sau ngày Văn Cao mất, thành phố Hải Pḥng đă đặt tên ông cho một con phố rất đẹp ở quận Ngô Quyền. Huế có một con đường mang tên Văn Cao ở Phường Xuân Phú, Đà Nẵng có phố Văn Cao ở quận Thanh Khê. Thành phố Hồ Chí Minh  Nam Định cũng đều có đường mang tên ông.

Năm 2005, mười năm sau ngày Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên Văn Cao đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thành phố nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. Ông Nguyễn Quốc Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó, đích thân tới nhà gia đ́nh Văn Cao vào hôm trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Dự kiến con đường Văn Cao tương lai sẽ xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, kéo dài ra tận sát Hồ Tây, về quy mô và quy hoạch sẽ đẹp như đường Nguyễn Chí Thanh và đường Liễu Giai.

 

Gia đ́nh riêng

Văn Cao xây dựng gia đ́nh cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.

 

Tác phm

 

Nhc

§                     Anh em khá cầm tay

§                     Buồn tàn thu (1939)

§                     Thiên Thai (1941)

§                     Đêm sơn cước

§                     Đêm xuân

§                     Gió núi

§                     Ḥ kéo gỗ Bạch Đằng Giang (1941)

§                     Bến xuân (nhạc Văn Cao, lời viết chung với Phạm Duy),
sau này Văn Cao viết lời mới
và đổi thành Đàn chim Việt (1942)

§                     Suối mơ

§                     Thu cô liêu (1942)

§                     Cung đàn xưa (1942)

§                     G̣ Đống Đa (1942)

§                     Trương Chi (1943)

§                     Tiến quân ca (1944)

§                     Hải quân Việt Nam (1945)

§                     Không quân Việt Nam (1945)

§                     Bắc Sơn (1945)

§                     Chiến sĩ Việt Nam (1945)

§                     Làng tôi (1947)

§                     Ngày mai

§                     Thăng Long hành khúc ca

§                     Tiến về Hà Nội

§                     T́nh ca Trung du

§                     Trường ca sông Lô (1947)

§                     Ngày mùa (1948)

§                     Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)

§                     Mùa xuân đầu tiên (1976)

 

Thơ

§                     Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
(1945, khi chứng kiến nạn đói năm 1945)

§                     Anh có nghe không
(Giai phẩm Mùa xuân - tháng 2, 1956)

§                     Một đêm Hà Nội

§                     Những ngày báo hiệu mùa xuân

§                     Khuôn mặt em (1974)

§                     Ai về Kinh bắc

§                     Một đêm đàn lạnh trên sông Huế

§                     Ba biến khúc tuổi 65 (tháng 9-1988)

§                      (xuất bản năm 1988)

§                     Thời gian

§                     Trôi

§                     Năm buổi sáng không có trong sự thật

§                     Phố Phái

§                     Có lúc

§                     Đường rừng

 

Hi ha điêu khc

§                     Rất nhiều họa phẩm giá trị, nghệ thuật độc đáo.

 

 

Nguồn:   wikipedia.org