ÔNG NĂM CHUỘT

 

Phan Khôi



          Hồi tôi c̣n 14 tuổi, 15 tuổi, th́ đă nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía Bắc làng tôi, cách một con sông, về sau có cái ga xe hỏa gọi là ga Kỳ Lam, c̣n mọi sự khác không biết rơ. H́nh như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con ǵ ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Đà Nẵng, Hội An.
          Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc ǵ về cái nghề của hắn cả. Nhiều người c̣n nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, h́nh như họ có ư ngờ cho Năm Chuột định làm một việc ǵ lớn, “làm giặc” chẳng hạn.
          Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước xáo” tức là mắng người ấy đă lại nói láo nói phét rồi, có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá tức là láo quá.

          Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ư mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo xôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ-khoa, không th́ cũng cử-nhân năm tên trở lên, việc ǵ mà phải để ư đến chuyện một anh thợ bạc.
         Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài - quái lạ, sao lại đỗ tú tài ? - về nhà, cách mấy hôm th́ tôi đi về làng Xuân Đài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về th́ vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quấn đến đầu gối, chân mang dép da sống.
         Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay c̣n cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tṛn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng ǵ đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:


         - Anh Năm phải không?
         - Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.


         Tôi nguyên đă cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, th́ ra là người thấy lúc năy. Anh ta tự giới thiệu:


         - Tôi là Năm Chuột đây.
Rồi đột ngột hỏi tôi:
         - Nghe nói cậu đậu Tú Tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ-khoa th́ cậu làm nên cái tṛ trống ǵ?

          Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn ấp úng, cười h́ h́ không trả lời được. Bởi v́ cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi th́ thôi, đă đi thi th́ lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện. Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:

          - Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc-tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.
          - Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?

          Tôi nói cho có nói, chứ không có ư ǵ cả.
Nhưng anh ta căi phăng:


          - Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đă tróc ngói ; c̣n ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri-phủ có 3 năm về “chung dưỡng”, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?
          Tôi thấy cái điều anh ta nói đó h́nh như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:

         - Ai có đời, cha chết v́ đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!

          Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ư anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:

          - Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi th́ cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế th́ đến lụn bại mất.

          Anh ta bĩu môi, cái môi đă trề rồi, c̣n bĩu nữa, rất khó coi:

          - Ra chỉ có làm quan mới cứu văn được nghiệp nhà. Thế th́ bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.

          Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:

         - Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa-hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi, Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, th́ ông cậu của cậu đă làm bang tá trong cái đồn ấy. Để làm ǵ? Cậu có biết không? Để đàn áp Nghĩa-hội.

          Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi c̣n nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:

          - Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm ǵ biết được những chuyện ấy?

          Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nh́n vào mặt tôi:

          - Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.

          Th́nh ĺnh anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:

         - Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút th́ hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.

          - Sao vậy?

          - Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản “gia ước”, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm th́ trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Đủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái ǵ cũng làm nghịch lại với cha.

          Cái “gia ước” mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, v́ không hề nghe ai nói tới. Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, th́ anh ta nói cũng có lư. Tôi lại làm thinh. Đây đă đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt. Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:

          - Tôi nói năy giờ có làm mếch ḷng cậu không ? đời có thiếu ǵ chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch ḷng cậu, nhưng t́nh cờ gặp câu chuyện đáng nói th́ cứ nói.
          Rồi anh ta tỏ ư mong gặp tôi lần khác. Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “À, ra Năm Chuột là con người như thế đấy”. Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.
Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:

          - Cái thằng láo đến thế là cùng!
          - Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.
Tôi rón rén thưa lại.
          - Đúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à?
Thấy thầy tôi nói hơi xẵng , tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:
          - Cái “gia ước” ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?
          - Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Đông Bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) th́ có, c̣n nhà Xuân Tài, tao không nghe.

          Đến lúc tắt đèn, đi ngủ rồi, thầy tôi c̣n nói một ḿnh:
          - Cái thằng láo quá!

          Đó về sau hơn 10 năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đ́nh ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật ǵ ḿnh đă bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại.

          Làng tôi có một chỗ gọi là Cồn Mũi Gươm, có một vạt đất gọi là đất Chó ỉa, theo lời th́ Năm Chuột đă xin làm cái túp tranh trên vạt đất ấy, và cưới vợ là con gái quá lứa của một nhà có môn bài bán rượu và thuốc phiện cũng ở làng tôi. Hắn vẫn làm thợ bạc.
          Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái ḷ bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái ḷ bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói:

         - Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, th́ cũng chẳng khác tắm bằng nước.

          Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đ̣n kê đặt ở đất gần ḷ bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc. Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào ḷ bễ, bắc ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái b́nh tích trà hăm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:

         - Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.
         - Ông mà thiếu ǵ chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Đài đến Bảo An.

Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:

          - Thôi thôi, đă lâu nay tôi không c̣n nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà c̣n có hại. Giá tôi c̣n cứ nói cái lối đó th́ không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.

Tôi nói:

          - Đă thế th́ đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch ḷng tôi, th́ bây giờ tôi cũng không sợ mếch ḷng ông mà hỏi ông một vài điều.

Anh ta cười một cách thẳng thắn.

          - Được lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái ǵ hết, bây giờ ông vác ḷ bễ đến đây làm ǵ?

Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:

          - Sở dĩ tôi ở đây là v́ có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khóa tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, c̣n sự làm đồ vàng bạc th́ chỉ thỉnh thoảng mới có.
          - Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?

Anh ta lại cười một cách xỏ lá:

          - Thứ ăn cắp mà kể ǵ ? Có những kẻ ăn cướp th́ không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ tùy người, ở làng Bảo An đây th́ tôi không thèm.

Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:

          - Năm Thành Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hóa Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đ̣i đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi ṿng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói “được”, và xin cho xem đôi ṿng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có 1 vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi ṿng tự tay cô đặt lên vuông lụa. Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi ṿng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, c̣n vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu ǵ không. Xong rồi, tôi trả đôi ṿng lại và nói: “Bẫm bà lớn, đôi ṿng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ư không?”. Cô ta nói: “Tôi biết, nó là chữ “ngọc”. Tôi nói: “Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn”. Cô ta đồng ư.

         Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.

         - Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi ṿng cốt giả mạ vàng. Đáng lẽ làm bằng đồng th́ được lợi nhiều hơn nhưng v́ có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi ṿng của cô Hóa Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết...

Tôi ngắt:

          - Đành rằng ông làm 1 cái rất giống, c̣n như đồng cân của đôi ṿng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?

         - Ấy thế mới là tài. Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. Chính ăn người là ở chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí ǵ, tôi nhắc nhắc trên tay khắc đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.

          Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu-ly đưa cho tôi, nói quả quyết:

          - Ông biết mặt cân chứ ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng th́ nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.

         Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vao chỗ ba chỉ th́ hơi vát. Tôi kêu lên:

         - Thế th́ tài thật. Xin chịu.

Anh ta lại nói:

          - C̣n một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, ch́ cùng một thể tích th́ lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy th́ ḿnh muốn cho đồng cân của đôi ṿng giả bằng đôi ṿng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi ṿng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó có thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.

Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:

         - Đúng 10 ngày tội lại đến. Hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi ṿng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi ṿng nặng một lạng hai - tôi chắc dạ lắm, v́ đôi ṿng giả của tôi cũng đúng một lạng hai - cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưa nhận, xin cho xem đôi ṿng đă. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi ṿng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi ṿng cho tôi, tôi ch́a bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi ṿng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả ṿng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi ṿng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi ṿng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: “Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?”. Tôi nói:”Bẫm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng”. Cô ta khen: “Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Điện viết trát đ̣i chú là v́ có bà Phủ mách miệng”. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Điện, tôi đem đôi ṿng chạm vàng mười chính hiệu của “bà lớn” gửi cho một người anh em “đồng đạo”. Tôi không quên câu tục ngữ: “Có gian phải có ngoan”.

         - Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm c̣n ăn cắp nữa? Tôi hỏi.
         - Không, tôi dại ǵ mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải v́ thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đă định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ ǵ. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: “ Tôi là người Hóa Mộc, khắc chữ “mộc” cho tôi”. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi v́ hai đôi ṿng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau đễ làm dấu th́ mai sau đôi giả có x́ ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng c̣n ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đă làm cho hắn đôi ṿng thật đó hóa ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đă giết người ai c̣n gớm chảy máu.

         - Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không ? Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng Đốc, Bố Chánh, án Sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc năy đă mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi “mách miệng” cho người khác. Những việc như thế tôi cũng chẳng dấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đă có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.

Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:

         - Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng th́ có. Hồi tôi ở Đà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả th́ tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi ǵ mấy, về sau tôi không làm nữa.

          Năm Chuột c̣n nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ ǵ, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau th́ thành ra thứ ǵ, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:

          - Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?

Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ư, vỗ vào đùi tôi:

          - Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có 1 cuốn sách là cuốn Kim Thạch chí-biệt.

          Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này c̣n biết chữ nữa ḱa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim-Thạch Chí Biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho măi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao ḿnh đă không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ v́ nghĩ ḿnh là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc th́ ê quá.

          Đó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Saigon về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta c̣n in trong đầu tôi mấy câu chuyện lư thú và bất ngờ nữa.

*

         Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đă phê b́nh cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết.
Một lần, phê b́nh nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói:

         - tôi chỉ phục có hai người, một là ông Biện Chín, một là ông Tám Thứ.

         Ông Tám Thứ, người Minh Hương, ở ngụ làng tôi, nghèo, chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. C̣n ông Biện Chín, tên thật là Phan Định, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người “cần kiệm liêm chính” lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi.
         Tôi không tham gia ư kiến ǵ, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê b́nh đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ư, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đă đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về ở làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng ǵ, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha ḿnh cũng có khuyết điểm ǵ như cậu ḿnh, làm cho người ngoài phi nghị mà ḿnh không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, th́ chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Th́ ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.

Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:

         - Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa ? Ông co 'nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?

Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi ḿnh điều ấy. Song cũng cứ theo ḿnh biết mà trả lời:

         - Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.

         Cho đến lúc tôi ngoài 20 tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Pḥng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán-sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần căi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, th́ tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:

         - Ở làng này c̣n có 2 ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy th́ ông cũng cho rằng 2 ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao ?

          “Thằng cha khó chịu thật” tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự ḿnh cũng thấy là non nớt quá:

          - Việc hai ông ấy th́ tôi không biết.

Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới b́nh tĩnh nói:

          - Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ư làm đôi ṿng thật nhanh thành ra đôi ṿng giả th́ tôi mới nói.

         - Th́ ông cứ nói đi.
         - Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Đồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây th́ không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng ḿnh sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục măi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, c̣n quan lớn nhà ta về sớm là v́ mới 38 tuổi đă làm Tri-phủ.

          Tôi làm như không để ư gật gật nh́n anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáo. Làng tôi, tây giáp làng Đông-Mỹ, đông giáp làng Xuân-Đài, hai làng này đều có Tổng Đốc, mà làng tôi, thi đỗ th́ đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Đức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến phủ doăn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến án-sát Khánh Ḥa, cũng đều bị cách.
         Tôi không tin phong thủy, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rơ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể căi chày căi cối được. Tôi thấy chắc chắn lắm, v́ tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, c̣n anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế, cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.
         Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đ̣n kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi tḥ tay lấy xem, th́ là một cuốn Thương-Sơn thi tập không có b́a, đă xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:

         - Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến 10 cuốn, sao ở đây chỉ c̣n 1 cuốn?
         - Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ c̣n 1 cuốn, bởi v́ in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.
         - Ông có xem qua chứ?
         - Thơ của ông Hoàng ḿnh xem thế nào được ? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài Mại Trúc Diêu.

         Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương-Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài Mại trúc diêu là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ vi `dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta. Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương-Sơn ra t́m, t́m được bài Mại trúc diêu. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ Nữ Tân Văn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi-thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:

Bài hát bán tre


Ngày đốn hai cây trúc
Bán đi để dằn bụng
Trong cửa tre đầy kho
Ngoài cửa tiền chẳng cho
Không nói th́ cũng khổ
Nói th́ roi dài sẽ quật chú
Rày về sau đừng đốn tre nữa
Đói nằm trong tre chết cũng đủ!

 
          Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ư kiến. Tôi có ư trách. Anh ta giải thích thế này:

          “Người ta, cái ǵ biết ít th́ chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho tôi”.

         Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái ḱm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến ḷ bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó th́ ở làng tôi có nhiều người biết, cái ḱm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.

         Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm th́ thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi t́m anh ta. Đến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi th́ người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đă lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.

         Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, th́ gọi tao bằng ǵ?” .Tôi nghe mà tức ḿnh, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là Ông Năm Chuột”.

PHAN KHÔI
(báo Văn số 36, ra ngày 10-1-1958)