NGƯỜI VỢ MÙ

 

Khái Hưng



          Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp.
          Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh gị và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lư.
          Nhưng từ ngày tôi để ư đến vợ chồng người mù, th́ ở Ninh Giang, đối với tôi, không c̣n sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện tṛ với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.

          Tôi không rơ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi ḥ hẹn từ bao giờ, và v́ sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác t́ tay lan can nh́n xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:

          - Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!

         Lời nói dơng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xă hội cao quư. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:

         - Ai muối mua!

         Và tôi nhớ ngay ra ông lăo bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố.

         Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền.
         Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”.
         Xe đi khỏi th́ người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu v́ sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô.

         Luôn một tuần như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi ṭ ṃ lưu ư đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, v́ họ nói rất to, như chẳng cần ǵ ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn pḥng riêng của họ.
          Họ có nhà riêng hay không, và nếu có th́ nhà riêng họ ở đâu, tôi không rơ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đ́nh họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin.
          Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:

          - Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?

          Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra ǵ”.

          Rồi bà lăo ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đă xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu b́nh phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp ḷng vợ.

          - Ông ạ, con mẹ Phúc Ḥa Đường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?
          - Con mẹ Phúc Ḥa Đường ở phố Ninh Lăng có phải không bà?
          - Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?
          - Thế nó có cho bà đồng nào không?
          - Nó cho mà nó nhiếc th́ đă cam.
          - Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ.
          - Giàu thế th́ giàu làm ǵ? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù ḷa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?
          - Phải, bền thế nào được.
          - Giá giời cho vợ chồng ḿnh giàu như họ th́ ḿnh ăn ở ra người giàu, có phải không ông?
          - Phải, ḿnh để của làm ǵ? Để của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi th́ đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách.
          - Thế à ông?

          Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.

          - Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Đoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?
         Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lăo kể đến chuyện gia đ́nh nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không căi nhau. Bà lăo nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi b́nh phẩm:

          - Cứ nghèo như vợ chồng ḿnh lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?

Ông lăo bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa. Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, th́ người chồng t́m hết lời an ủi:

          - Thôi, bà ạ, cần ǵ. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng ḿnh chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đă đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây.

          Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện.

          Nửa năm ṛng, tôi ṭ ṃ đi sâu măi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó. Có hôm tôi đă cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù.


*

          Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đă chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày. Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh th́ gặp ông lăo ḷa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:

         - Ḱa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?

        Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nh́n tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:

         - C̣n bà lăo, vợ ông, lâu nay đi đâu?

         Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi g̣ má răn reo. Tôi hiểu ngay rằng ông lăo già khốn nạn đương mang nặng trong ḷng một nỗi thống khổ lớn lao. Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt...

         - Ông buồn lắm phải không?

         -Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lăo nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi...

         Tôi kinh ngạc:

         - Bà ấy bỏ ông?
         - Vâng, bà ấy chết rồi, c̣n đâu!

         Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:

          - Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng ǵ... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một ḿnh.

          Lúc từ biệt, tôi đăi ông lăo khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:

         - Tôi lấy tiền làm ǵ nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ c̣n một thân một ḿnh, th́ tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lăo tôi ở nơi suối vàng.
          Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lăo bán muối vẫn c̣n đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi tṛ chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi.

Khái Hưng

(1944)