Seattle / Vancouver, Dec-09/12-2011

 

Nguyn Tài Ngc

http://www.saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/trangNTN.htm

 

 

Ngồi trong xe trên Freeway 405 khúc đường vừa đến Freeway 101, bụng dạ tôi bồn chồn, bứt rứt không yên tâm một tí nào. Hôm nay là Thứ Sáu, 9 giờ 30 sáng chúng tôi có chuyến bay đi Seattle từ phi trường Los Angeles. Nhà  tôi cách xa phi trường 40 miles, trung b́nh đi là 40 phút.  Đă sợ bị kẹt xe, tôi đă rời nhà ba giờ trước đó, thế mà mới có di chuyển chỉ có 20 miles,  đến đoạn đường  Victory th́ xa lộ đă biến thành băi đậu xe khổng lồ. Trong  một giờ đồng hồ, tôi chỉ đi được bốn miles. Los Angeles có nhiều đường xa lộ nhất nước Mỹ, một chiều đi trung b́nh có 5 lane (đường xe đi). Có nơi như ở giao điểm với freeway 101  tôi đang bị kẹt ở đây, một hướng đi có đến 8 lanes, hai chiều là 16 lanes mà vẫn không đủ đường cho xe chạy. “Sống v́ gươm, chết v́ gươm” (“Live by the sword, die by the sword”, Kinh Thánh Ma-Thi-Ơ 26:52), dân Los Angeles mê lái xe nên... chết v́ xe cộ quá nhiều, ứ đọng khắp nơi.

Nhúc nhích đến khoảng chừng freeway 10, 15 miles cách LAX, xe cộ đă bớt đông để tôi có thể chạy đến 45 miles một giờ. Nhưng bây giờ đă là 8:30. Chạy đến khách sạn Marriott trên đường Century đậu xe, dùng xe bus khách sạn chở đến phi trường, đến quầy check vé máy bay, cởi giầy, cởi áo, cởi thắt lưng qua khỏi an ninh Home Land Security kiểm soát hành khách, chúng tôi đến cổng đợi chỉ có hai mươi phút trước khi máy bay bay.  Lần đầu tiên trong đời tôi đi sát nút như vậy.

Vào ngồi trong máy bay, cửa đóng lại, máy bay chạy chầm chậm rời cổng trên đường ra phi đạo th́ chúng tôi khám phá cái "lần đầu tiên" thứ hai xẩy ra cho chúng tôi trong đời đi máy bay: tiếng máy nổ hục hặc. Qua cửa sổ tôi có thể thấy khói đen sau đuôi thổi ra từng chập. Máy bay ngừng lại và người phi công loan báo là có việc không ổn, phải quay trở lại cổng để sửa.  45 phút ngồi trong máy bay chờ đợi để rồi sau cùng phi công loan báo không thể nào sửa kịp thời, chúng tôi phải rời máy bay, ra lại quầy để nhân viên t́m chỗ cho mọi người ở những chuyến kế tiếp.  Chúng tôi được may mắn nhét vào chuyến 12:45, và rồi đến Seattle vào lúc 3:20 chiều.

Hành khách đến phi trường Seattle sẽ thấy ngay treo lủng lẳng trên trần là hai chiếc máy bay, một chiếc copy kích thước thật sự của chiếc Voyager hai phi công Dick Rutan và Jeana Yeager vào ngày 14-12-1986 cất cánh từ Mohave Desert, bay chín ngày ṿng quanh thế giới không cần tiếp liệu, một kỷ lục đến giờ vẫn chưa bị phá vỡ (vận tốc trung b́nh của máy bay là 110 miles/ 1giờ).

Chiếc máy bay này rất nhỏ, thân máy bay chỉ vừa đủ cho hai người, một ngồi, một nằm, tiểu tiện tại chỗ.  Thế mà cánh của nó dài đến 110 feet 8 inch (33.8m), bằng cánh của máy bay Airbus A320, chở đến 149 hành khách.

 

 

Tôi đến Seattle thăm con gái con của anh tôi. Hai vợ chồng mới có một con gái mười tháng tên Ava. Tôi đặt tên nó là Happy Baby v́ nó cười suốt ngày trong thời gian vợ chồng tôi ở đó.

 

 

Seattle nằm sát biển, thuộc về tiểu bang Washington,  thành phố lớn nhất ở Tây Bắc nước Mỹ. Kể cả khu vực lân cận, Seattle có 3.4 triệu người. Như San Francisco, thành phố có nhiều đường là đồi núi. Nhà cửa phần đông xây vào thời thập niên 1900, hầu hết có hầm basement. Ở những khu khá giả dân chúng sửa sang, tân trang, sơn phết lại, trông thật là đẹp mắt.

 

 

Đời sống ở Seattle không khác ǵ   Paris. Sáng sớm thiên hạ đi bộ ra tiệm mua croissant, uống cà phê.

 

 

Tối đêm trời bên ngoài lạnh 0 độ C, 32 độ F, cháu tôi rủ đi mua kem. Quen với đời sống ở Los Angeles, tôi nói leo lên xe tôi chở đi. Cô ta  nói không, đi bộ. Đi bộ 10 phút ra tiệm kem đầy những người vào lúc 9 giờ đêm. Đúng là chỉ có ở Paris, New York, hay Seattle!

 

 

Du khách đến Seattle nên đi xem vài chỗ sau đây:

Tháp Space Needle: Cao 605 feet (184m), xây vào năm 1962, có thể chịu đựng động đất với độ chấn động 9.1 magnitude hoặc  gió thổi 200 miles/ 1giờ.

 

Kerry Park,  211 W. Highland Dr.: Một công viên nhỏ với vị trí tuyệt vời để xem downtown Seattle với nhà chọc trời  ngay sát bên vịnh biển.  

 

 

Khi tôi đến đó th́ đă có một số thợ chụp h́nh thiện nghệ đang trổ tài:

 

 

Downtown Seattle: nhiều hàng quán, shopping, dân chúng đi bộ tấp nập. Ảnh này chụp vào sáng sớm:

 

 

Pique Place Market, giữa Pike và Pine Street, đường  First Ave: Đây là Chợ Bến Thành của Seattle, bán đủ mọi thứ hầm bà lằng: cá, cua, rau cải, trái cây, bánh kẹo, thức ăn vặt…. Đặc biệt ở khu bán cua cá rất sống động.

 

Khu Việt Nam:  góc đường South Jackson12th Street (International District). Ảnh dưới đây là nhà hàng Thanh Vị, địa chỉ 1046 S. Jackson Street, ăn tương đối ngon. Khu này cũ kỹ, nhà cửa lụp xụp. Tôi nghe nói đi thẳng con đường 12th đến Martin Luther King, quẹo trái có khu Việt Nam to hơn, nhưng  không có th́ giờ đi xem.

 

 

Cháu gái tôi làm cho Bill & Melinda Gates Foundation nên sáng Thứ Bẩy cô ta dẫn chúng tôi vào thăm viếng cơ quan, tọa lạc sát ngay bên tháp Space Needle, 500 5th Ave. Foundation này mới khánh thành vào tháng 6 năm nay, với phí tổn xây cất là nửa tỷ đô-la, $350 triệu là tiền riêng của vợ chồng Bill Gates. 1,500 nhân viên làm việc ở đây. Nhắc đến tên Chế Linh th́ nhiều người không biết, mà lại c̣n bị lính chê, chứ nhắc đến tên Bill Gates th́ con nít mới sanh ra đời ở Kenya cũng biết Bill Gates là ai: cha đẻ của Microsoft, nhà tỷ phú giầu thứ nh́ trên thế giới, trích ra 37 tỷ đô-la tiền riêng của ḿnh để lập nên tổ chức bất vụ lợi Bill & Melinda Gates Foundation giúp đỡ và nâng cao đời sống nhân loại. Cộng với tiền của nhà tỷ phú Warren Buffet hùn vào cho, Gates Foundation có ngân quỹ hơn 60 tỷ đô-la. Để cho bạn đọc biết khái niệm 60 tỷ đô-la là bao nhiêu: nó trị giá hơn hăng máy bay Boeing của nước Mỹ!

 

 

Weekend không ai đi làm, vắng hoe, nhưng nhân viên an ninh có mặt 24/24 giờ. Ở quầy tiếp tân là một tác phẩm nghệ thuật: một cột trụ với chăn chất đống. Chăn do nhân viên gửi đến, mỗi cái có một thẻ giấy gắn vào khăn giải thích lư do tại sao chăn được chọn là một phần của tác phẩm nghệ thuật này.

Khách không có căn cước để họ kiểm soát ghi tên vào computer th́ xin mời về Việt Nam du lịch, miễn vào đây. Khách được tặng một “brochure” đọc để biết viễn tượng và mục đích của Gates Foundation: nâng cao mức sống của thế giới và nước Mỹ. 

 

 

Gates Foundation phân phát mỗi năm từ 2 đến 3 tỷ đô-la cho ba chương tŕnh chính yếu:

-        Cải tiến, khuếch trương, tân trang về nông nghiệp, điện nước, cầu cống, tài chính để chống nạn đói và nâng cao đời sống của dân nghèo trên thế giới.

-        Y tế thế giới: mang kỹ thuật khoa học trong ngành y tế đến các quốc gia nghèo để cứu mạng dân chúng chống đối  các cơn bệnh hiểm nghèo (Chương tŕnh này và chương tŕnh trên cho thế giới dùng 70% số tiền phân phát hàng năm).

-        30% số tiền c̣n lại dùng để hỗ trợ ngành giáo dục bậc Trung học và Đại học ở Hoa Kỳ, giúp đỡ thư viện và dân vô gia cư ở vùng Tây Bắc nước Mỹ.    

Gates Foundation khuyến khích nhân viên dâng hiến tiền vào các quỹ từ thiện bất vụ lợi bằng cách bỏ vào gấp ba lần số tiền nhân viên cho. Nói thí dụ một nhân viên muốn dâng $10,000 đô-la cho Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ,  Gates Foundation sẽ cho thêm $30,000 đô-la nữa.  

 

Tầng kính cao trên cùng của building ở giữa trong tấm h́nh này là văn pḥng của Bill Gates:

 

 

Seattle nằm ngay vịnh biển nên có nhiều tầu bè chở đi xem thắng cảnh khắp nơi, ngắn hạn có, dài hạn có. Tôi không có đủ th́ giờ nên buổi trưa Thứ Bẩy lái xe đi Vancouver thăm một người bạn Trung học Hùng Vương cũ. Gương mặt tôi không giống quân khủng bố nên cảnh sát Canada cho tôi đi sau khi xem giấy thông hành. 3 giờ 30 chiều tôi đến Inn at the Quay, một khách sạn có lối kiến trúc thú vị ở New Westminster, cách Vancouver, Canada 25 phút lái xe:

 

 

Ở bến tầu này có shopping, nhà hàng, tầu đi du ngoạn… thế nhưng v́ là mùa Đông, ban ngày nhiệt độ 4 độ C nên rất ít người đến giải trí.

Hai h́nh sau đây là cảnh nh́n từ khách sạn:

 

 

Du khách đến Vancouver nên đến Robson Street ở downtown, giữa Burrard và Jervis, vui nhộn và đông đảo như Champs-Élysées ở Paris. Ảnh dưới đây là Hải, bạn học của tôi, với vợ là Cúc, chụp trên Robson Street: 

 

 

Cách Robson Street vài block là Granville Street, cũng đẹp mắt không thua ǵ Robson Street:

 

 

Chủ Nhật ngày hôm sau chúng tôi ghé đến khu Việt Nam ở trên đường Kingsway mua bánh ḿ và chè. Có khá nhiều hàng quán Việt Nam trên đường này. Sau đó chúng tôi ghé vào Chinatown ăn dim-sum. Chinatown của Vancouver lớn thứ nh́ ở Bắc Mỹ, sau Chinatown ở San Francisco. Chinatown Vancouver rất sạch sẽ, đường xá rộng lớn. Ngay cả tiệm ăn Tầu cũng to đại, so với San Francisco hay Los Angeles.   

 

 

Sau khi ăn, chúng tôi lái qua downtown, ra Convention Center ngay ven biển. Ba năm trước tôi có đến đây vào mùa hè, thiên hạ đi chơi nhộn nhịp, nhưng lần này th́ vắng người.

 

 

Tháng 3 năm 2010 Thế Vận Hội mùa Đông tổ chức ở Vancouver. Trong buổi lễ khai mạc, họ chế bốn cây cột kính này chụm lại đốt ngọn đuốc Thế Vận Hội.

 

 

Sáng sớm hôm sau chúng tôi lái xe trở về Seattle để bay về Los Angeles. Khi ở Vancouver, ban đêm xuống dưới 0 độ, tôi đă hy vọng trời mưa tuyết để chụp h́nh nhưng khí hậu khô queo. Lái xe trở lại Mỹ, khi vào tiểu bang Washington, trời lạnh trừ 5 độ  th́ có một cơn mưa tuyết nhẹ, tuyết vừa phủ chỏm đầu cây cỏ.

 

 

Chiếc máy bay A320 đầy nghẹt hành khách, gần 149 người. Ai có bay Virgin America, hỏi họ Main cabin Select -hai hàng ghế, một sau First Class, và một ngay cửa Emergency Exit- có c̣n chỗ trống không. Nếu có và nếu dưới $50 đô-la th́ nên trả tiền để được upgrade ngồi ở hai hàng ghế này (nếu đặt mua vé trước th́ hai hàng ghế này đắt hơn ghế hạng b́nh thường đến $200 hay hơn). Lư do? Chỗ duỗi chân thật là rộng, gấp đôi khoảng trống b́nh thường, và thức ăn, nước uống, bia rượu tha hồ ḿnh gọi Tiếp Đăi Viên mang đến: tất cả đều miễn phí.

Cô ngồi gần cửa sổ hàng ghế tôi ngồi gọi đến năm chai rượu (loại nhỏ bằng tí dùng trên máy bay), hai bánh ḿ sandwich, mấy gói chip. Cô ta bảo  đă trả tiền upgrade, mặc dù đại hạ giá chỉ có $39 đô-la trước khi lên máy bay,  th́ dại ǵ mà không kêu ăn uống thả cửa.

Con người ta ḷng tham thật không đáy. Chính tôi đây cũng đă bắt chước gọi trái cây, sandwich, và nước uống tuy rằng không đói bụng một tí nào. Ư nghĩ duy nhất trong đầu của tôi lúc bấy giờ là tôi chỉ muốn được lợi cho tôi, không cần biết hăng máy bay có lỗ hay không v́ tôi muốn dùng số lượng thức ăn nước uống nhiều hơn số tiền trả upgrade.

Bill Gates là một người tài giỏi, tiền rừng bạc bể. Thay v́ dùng số tiền đó cho một đời sống xa hoa, vợ chồng ông ta trích ra một số tiền khổng lồ lập ra Bill &Melinda Gates Foundation để giúp đỡ người khác. Tuy là tôi không thể nào so sánh với Bill Gates trên phương diện tài giỏi hay giầu có, nhưng nếu so sánh về phương diện quên ḿnh cứu người,  tôi không thể nào bằng Bill Gates: chỉ có vài chai nước uống, vài miếng sandwich, vài miếng bánh ngọt mà tôi đă có ḷng tham không đáy, muốn cô Tiếp Đăi Viên mang thật nhiều v́ tôi chỉ nghĩ đến tôi.

Bẩy mươi năm về trước nước Mỹ cũng có một người tài giỏi và giầu có như Bill Gates: Howard Hughes. Howard Hughes là một nhà kinh doanh, phi công, kỹ sư, tài tử, đạo diễn, nhà từ thiện, tỷ phú. Thế nhưng ông ta lúc nào cũng muốn có hơn cái ǵ ḿnh đang có. Từ số tiền thừa hưởng gia tài của bố để lại, ông ta làm nên bạc tỷ. Muốn tên tuổi ḿnh được vang danh, ông ta đến Hollywood làm đạo diễn.  Muốn thỏa măn t́nh dục, ông ta tung tiền ngủ với những cô gái đẹp. Muốn thêm hào hứng trong đời, ông ta bỏ tiền xây và lái chiếc máy bay nhanh nhất, lớn nhất thời bấy giờ. Muốn thêm quyền hành, ông ta ngấm ngầm dùng tiền mua chuộc sự ưu đăi của hai Tổng Thống. Lúc nào ông ta cũng muốn thêm, thêm, thêm.

Sự ham muốn điên cuồng này làm cho ông mất trí. Khi về già, ông ta gần như điên, sống cô độc một ḿnh, tay đầy dấu kim chích x́-ke ma túy, râu tóc không cắt, người ngợm hôi hám.  

Kinh Thánh 1 Ti-mô-Thê 6:10 nói: "Sự tham muốn tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác. Có người v́ đeo đuổi nó mà mất đức tin, chuốc cho ḿnh bao điều đau đớn".

Sự ham muốn thức ăn, nước uống dư thặng cho riêng ḿnh chẳng xa sự ham muốn tiền bạc là mấy. Tôi phải thức tỉnh kịp thời để theo gương sáng của Bill và Melinda Gates ham muốn sự giúp đỡ người khác, không tham muốn lợi lộc, tiền bạc cho riêng ḿnh để rồi một ngày ở đoạn cuối cuộc đời, tôi có thể điên cuồng mất trí nhớ như Howard Hughes.

 

Nguyễn Tài Ngọc

http://www.saigonocean.com/

December 2011