VIETNAM: PAST - PRESENT
SAIGON STREET NAMES
Reference1: email from LH 4/4/2011
Reference2: email from LBS 3/17/2012
REFERENCE2
SÀI G̉N VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA
Trần Ngọc Quang
Từ
hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đă
chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị,
hành chánh, văn hóa, xă hội.... luôn cả tên đường
của Sài G̣n. Nhiều đường đă thay đổi
tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh
hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất.
Vài người Việt ở nước ngoài
khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới
t́m lại được nhà ḿnh đă ở lúc trước.
Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể h́nh dung các
tên đường thuở trước, nói chi đến lịch
sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc
từ thuở niên thiếu và lại có tánh ṭ ṃ muốn biết
thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây
vài tên đường để công hiến các bạn đọc
giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm
ư kiến để tu bổ về sau.
Tôi
sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn
số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái B́nh
thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài G̣n,
vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa
binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng ch́m trong
khói lửa, lúc đó Việt Nam c̣n là một thuộc địa
của Pháp Quốc và nhiều đường Sài G̣n mang tên
Pháp.
Tôi
lớn lên tại Sài G̣n, tại số 148 đường
Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại
Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa
và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận
bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy
thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản
và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường
bị ngập : "nhờ vậy"
mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn
đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang
để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến
khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường
bị mẹ tôi quở trách.
Sau
khi "chạy giặc" hồi 1945 v́ máy bay đồng
minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để
chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đ́nh tôi trở
về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện
Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi
dọn trở về lại hẻm 176/11 đường
Colonel Boudonnet.
Nhà
thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người
giàu có vùng G̣ Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại
của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế
Bảo Đại.
Gần
nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère
nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến
Thầy Louis Gaubert lập ra trường Tabert, đường
Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng
nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng
tại Sài G̣n và tử trận trong Đệ Nhứt Thế
Chiến bên Pháp.
Trong
lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường
làng tại quận Hóc Môn và v́ một
sự t́nh cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển
phí lớp "Douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay v́
Petrus Kư như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất
trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn
Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng
khi khánh thành năm 1877 th́ đổi lại là Collège
Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện
thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước
Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân
và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người
quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội
Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đ́nh và trẻ
con Pháp sống tại Sài G̣n nên dư giáo viên mà thiếu học
tṛ ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại
Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường
nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi c̣n nhớ lúc ra về
tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để t́m Ba tôi,
thường người ra sở trễ và đi xe đạp
từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở
đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước
tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo
mủ cao su !
Thật
vậy, giữa trung tâm thành phố Sài G̣n không hiểu ông
Tây nào có ư kiến trồng cây cao su theo hai bên đường
Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry
là một Đề Đốc Pháp đă đánh vào Đà Nẳng
và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng
Nghị Sĩ và Bộ Trưởng
Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một
đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó,
sau khi lấy đá đập vào vỏ th́ chảy ra mủ
trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy
trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô th́ cuốn
tṛn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một
trái banh nhỏ.
Như
vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống"
và "dân Sài G̣n một trăm phần trăm", lớp
tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những
bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc
"Bắc trước năm mươi tư" mới
biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác
ráng mà t́m các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị "tây
hóa" nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường
cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của
tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay t́m ṭi trong tự điển
Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt
tên đường, sau thế hệ của
chúng tôi, ít c̣n ai nhớ đến tên những con đường
Sài G̣n năm xưa…
Mẹ
tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi
học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài G̣n theo đường
Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo
trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường
Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng
Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ
Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đựng Amiral Roze (người
đă từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới
đường Gia Long, tên của đường La
Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La
Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong
những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ,
Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm
1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng
chính Ông đă chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm
cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu
hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề
Đốc De La Grandière Sài G̣n phát triển mạnh mẻ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ
Rô" để có bóng mát rồi ra đường
Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết
tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy,
có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch)
nhưng theo học giả Trần Văn Xướng th́ do
Ông "Moreau", tên của người quản thủ
Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước
các người lớn tuổi c̣n gọi là "vườn
Ông Thượng", có thể là v́ trước kia Tả
Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy.
Dưới thời Pháp thuộc vườn "Bờ
Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc
nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người
thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất
và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice
Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được
tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt
lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais
Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi
Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng"
là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ,
nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó
là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn
Tao Đàn.
Ra
vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi
đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới
đường Testard : hai tên nầy ở
gần nhau cũng đúng v́ Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và
Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không
phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh
ác liệt tại Đồn Kỳ Ḥa, ở vùng trường
đua Phú Thọ, giữa lực lượng của Thống
Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor
Charner năm 1861. Ai cũng biết đường
Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược
rất dài đi từ Chợ Lớn,
từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie
Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy
đổi tên là Hồng Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard,
chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường
Barbé v́ học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa
sau.
Góc đường nầy sẽ liên hệ
nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên
y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet )
có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc
Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương
Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm
1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng
sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền
nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh
sau khi trở thành vua Gia Long ra
lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đă
che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng
sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn
chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng
Phật hiện c̣n lưu niệm trong Viện Bảo Tàng
Sài G̣n, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về
sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu
âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ
Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn
lại của người chủ là một luật sư
người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ
khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư
canh nông Việt Nam đầu
tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn
Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát
cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. C̣n Bà Henriette
Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt
Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại
Paris năm 1929, nay Bà đă 103 tuổi và hiện c̣n minh mẩn
và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng
vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một
người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt
thự tại Sài G̣n; vào đầu năm 1945 chánh phủ
Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự
khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng
đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt
đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi
Pháp trở lại th́ trao cho Viện Đại Học Sài
G̣n để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành
chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội
rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa
Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm
với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy
kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến
tranh.
Lớn lên
tôi đi xe đạp về một ḿnh nhưng thích đi
theo đường Testard hơn v́ có bóng mát dưới hàng
cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại
đường Phan Đ́nh Phùng) và thường ghé biệt
thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương
Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp,
nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một
Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ
XIX, c̣n Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes
người
gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam
kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt
nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi
sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp
kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12
cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với
rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài G̣n). Ông Eyriaud Des Vergnes
là người đầu tiên có ư lập ra đường
sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế
hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc
Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn
chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt
đầu tiên đi từ Sài G̣n đến Mỹ Tho năm
1885. Hai người nầy cũng có tên đường
và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng
(Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre
Flandin (tên của một "đứa con" của Sài
G̣n tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh
Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến
cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn
c̣n), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó
tên là đường Thái Lập Thành), đến ngă sáu Sài
G̣n th́ tôi lại đi qua đường Frère Louis để
về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường
nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn
là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng
trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời
vua Thiệu Trị v́ bị hành h́nh lối năm 1847, mả
đó nay vẫn c̣n nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên
một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như
thành phố Dixmude, nơi đă xẩy ra những trận đánh
lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ v́ Sài G̣n và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài G̣n : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lư), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi v́ giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Ḥa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài G̣n, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ
đi theo măi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) v́ vào
1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp
đóng tại đó) để về Ngă Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel
Boudonnet bằng ngă Amiral Roze. Đặc biệt Sài G̣n có rất
nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời
Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin
des Dames, đường
Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường
Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề
đốc Pháp v́ dưới thời các vua Minh Mạng và Tự
Đức tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng
tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô
Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc
Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng
Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngựi đă chiếm
Nam Kỳ, c̣n Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không
phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu
tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm
vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối
thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài G̣n là
"Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông
Sài G̣n đến Ṭa Thị Sảnh, có hai đường dọc
hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường
Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường
Charner. V́ mùi hôi thúi người Pháp lấp
kinh lại sau nhiều năm bàn căi và khi "đường
Kinh Lấp" thành lập th́ đương nhiên lấy
tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi
là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước
đó, có một kinh dẫn nước śnh lầy chảy
ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi
là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương
Hồng Sển v́ gần rạch Bến Nghé và gần
Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu
Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Ḥa, và đào
kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của
Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo
ư kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy
tên là Đại Lộ Bonard, v́ thế đường nầy
mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến
đ̣ họ thành lập một công trường lớn, đó
là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người
Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng
Sài G̣n, nay vẫn c̣n tên Công Trường Quách Thị Trang, một
nữ sinh thiệt mạng lúc biểu t́nh dưới thời
Ngô Đ́nh Diệm năm 1963. Trước Ṭa Thị Xă Sảnh,
ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng
binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier,
nay là công trường Lam Sơn, để tưởng nhớ
đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu
lưu trên đất bắc và tử thương tại
Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng
do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu,
sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng
Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương),
đường Pellerin (tên của một Giám Mục đă
bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề
Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào
1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường
mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt
Sài G̣n là đường Catinat, có trước khi người
Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đă bắn
đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của
một Đề Đốc như nhiều người tưởng,
thuyền "Le Catinat" lấy
tên của Thống Chế
Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới
thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm
sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều
"Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn
Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là
Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường
Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có
dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn c̣n dưới tên
Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden v́ trong cùng
có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối
đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt
Sài G̣n vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền
đâu mà mua đồ, nhiều lắm th́ lấy vài tấm
h́nh mà các ông phó nḥm chụp dạo lúc đi trước
"Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường
Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của
Sài G̣n, khi mới tráng nguời ta kêu là đường
"Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường
Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng
Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh
ra tŕnh diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường
Norodom th́ đường Catinat lấy tên của Cố Vấn
chánh phủ và Nghị Viên Thị Xă Sài G̣n Blancsubé và tiếp
theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài
chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến
là đựng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy
mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ
Con Rùa".
Ba tôi có nhiều
bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi
bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường
gọi là "xe lửa giữa" v́ chạy giửa đường
Gallieni, tới trạm gare de Nancy th́ bạn của Ba tôi lên
xe lửa đi cùng v́ ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau
nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi
c̣n nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu
của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường
Gallieni nối liền Sài G̣n với Chợ Lớn. Ba tôi nói
lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và śnh lầy,
sau khi lấp bưng thành đường đất gồ
ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài G̣n học vào năm 1928
th́ đường mới được tráng nhựa và năm
sau điện giăng giữa chia con đường làm
hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống,
đường rầy xe điện đặt trung tâm đại
lộ, đến năm 1953 măn hạn giao kèo khai thác mới
dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế
lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục
vụ ngoài Bắc lúc c̣n Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn
2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành
chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với
chữ "e" chớ không phải với chữ
"é" v́ là người gốc Ư Đại Lợi.
Xe điện
chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại
Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường
Jaccario (v́ lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu
gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ
Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới
gọi là rue des
Marins), ở
góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi
tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến
đường Tổng Đốc Phương th́ quẹo
qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn,
nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc c̣n ở
đường Colonel
Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ
và thường vô phía sau nhà thờ bắn "giàn thun"
trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt
nhiều lần ! Ngoài đường Frères
Guillerault trước nhà thờ, c̣n có đường
Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi
tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon
Combes là một đứa con của Sài G̣n ở Giồng
Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne,
thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ,
v́ học "trường tây" nên tôi thắc mắc và
tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi t́m hoài
trong sách vở không thấy ? Sau nầy
tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà
Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê),
con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu,
người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ
Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy
c̣n tên là Fémina Annamite và ṭa soạn ở 13 đường
Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ
Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi
tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
Về sau,
gia đ́nh tôi dọn về Chợ Lớn ở đường
Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi
tiếng v́ "Ḿ La Cai", đường mang tên của Đô
Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải
Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế
Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường
Pavie (nay là Lư Thái Tổ chớ không phải đường
3 tháng 2 v́ dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước
là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ.
Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng
danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất
dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô
và xe đạp. Nếu đi từ Ngă Bảy xuống công
trường Khải Định, từ giữa đường
nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy
những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con
cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn
Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với
chánh quyền tặng thành phố Sài G̣n Policlinique Déjean De La
Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người
Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở
thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho
Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đ́nh Chiến ở
và khúc đường nầy gọi là đường Hui
Bôn Hoả.
Lúc đó đường
Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều v́ có
thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước
khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze
đến đường Ducos (sau đổi là đường
Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm
tôi ở trước một mả đá lớn, mới
phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế
kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối
50 tuổi
và quan tài thứ nh́ chắc là
của một người đàn ông, chỉ có vài nữ
trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta
tưởng.
Từ đường
Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải
đạp xe xuống Ngă Bảy, quẹo trái qua đường
Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường
Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi
xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites, sau là Trường
Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo
xuống đường Barbé. Đường Général
Lizé là một đường chiến lược rất
dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi,
đi từ Ngă Bảy Chợ Lớn, nối dài đường
Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên
Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất
thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo
Binh chiến trường Ư tử trận hồi 1918, có phục
vụ bên Việt Nam lúc c̣n Đại Tá, c̣n Legrand De La Liraye
là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc
Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ
sơ giưă người Việt và
chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi
thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng
sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay
sau 1975 không c̣n đường nào trên mảnh đất Việt
Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không c̣n đường
vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không c̣n trường học
nào mang tên Petrus Kư ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học
giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh
Kư, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy
nhiều điều vô lư, họ quên rằng công lao lớn
nhứt của Ông Petrus Kư là truyền bá cho dân chúng sử dụng
chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ
XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói
ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học
mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu
bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng
Đạo tại Sài G̣n đang hát tuồng "Tả Quân
Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng
v́ những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được
hồi phục.
Hồi thời
Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những
anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của
(Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường
Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương)
trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc
Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố
trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm
trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa
và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị
Viên), và Trương Minh Kư, một trong những Nghị Viên
đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là
Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương
Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Kư đem
về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một
trong 7
người
sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm
trong Ṭa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm
1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất
lúc 55 tuổi v́ bệnh lao phổi.
Vị anh
hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất
thân từ trường Vơ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ
quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một
đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến
đường Charner, trước đó đường nầy
mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc
Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng
Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học
trung học tại trường nổi danh Janson De Sailly tại
Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904.
Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân
vừa thành lập ; bị thương nặng Đại
Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn
vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận
tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được
người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn
đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đ́nh tại
Chợ Lớn.
Nay Sài G̣n mất
nhiều di tích ngày xưa, v́ chiến tranh và v́ sự thay đổi
thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm
1983 đă sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ
1799 để lập một công trường mà chả thấy
ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đă ảnh
hưởng Việt Nam nhiều
nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được
dân Việt Nam biết dưới
tên Bá Đa Lộc hay Evèque d'Adran, người đă giúp Nguyễn
Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh
qua triều đ́nh vua Louis XVI để kư Hiệp Ước
Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó
thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đ́nh
có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie
ở miền bắc nước Pháp. Vua
Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường
Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Ṭa Tổng Giám Mục
đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Quận 3) và đọc
điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ
ông người Sài G̣n gọi là Lăng Cha Cả là một
trong những di tích xưa nhứt của Sài G̣n "ở
Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước
trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha
Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và
chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại
quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua
Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở
thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine"
và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ văng của
một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để
giử biên cương …
Tôi cũng
có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp
từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu
và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ
bên Ai Cập có trước
nền văn hóa của Hy Lạp
và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ ǵn những
kho tàng quư giá của lịch sử.
--------------------------------
Những
tên đường Sài G̣n trong bài theo thời cuộc |
|
|
Thời
pháp thuộc |
Sau
1954 |
Sau
1975 |
Albert
Premier |
Đinh
Tiên Hoàng |
Đinh
Tiên Hoàng |
Amiral
Roze |
Trương
Công Định |
Trương
Định |
Armand
Rousseau, Jean-Jacques Rousseau |
Trần
Hoàng Quân |
Nguyễn
Chí Thanh |
Arras
|
Cống
Qùynh |
Cống
Qùynh |
Aviateur
Garros, Rolland Garros |
Thủ
Khoa Huân |
Thủ
Khoa Huân |
Barbé
|
Lê
Qúy Đôn |
Lê
Qúy Đôn |
Blancsubé,
rue Catinat prolongée |
Duy
Tân |
Phạm
Ngọc Thạch |
Bonard
|
Lê
Lợi |
Lê
Lợi |
Carabelli
|
Nguyễn
Thiệp |
Nguyễn
Thiệp |
Catinat
|
Tư
Do |
Đồng
Khởi |
Champagne
|
Yên
Đỗ |
Lư
Chính Thắng |
Charner
|
Nguyễn
Huệ |
Nguyễn
Huệ |
Chasseloup
Laubat |
Hồng
Thập Tự |
Nguyễn
Thi Minh Khai |
Chemin
des Dames |
Nguyễn
Phi |
Lê
Anh Xuân |
Colonel
Boudonnet |
Lê
Lai |
Lê
Lai |
Dixmude
|
Đề
Thám |
Đề
Thám |
Đỗ
Hữu Vị, Hamelin |
Huỳnh
Thúc Kháng |
Huỳnh
Thúc Kháng |
Douaumont
|
Cô
Giang |
Cô
Giang |
Ducos
|
Triệu
Đà |
Ngô
Quyền |
Duranton
|
Bùi
Thị Xuân |
Bùi
Thị Xuân |
Espagne
|
Lê
Thánh Tôn |
Lê
Thánh Tôn |
Eyriaud
Des Vergnes |
Trương
Minh Giảng |
Trần
Quốc Thảo |
Frédéric
Drouhet |
Hùng
Vương |
Hùng
Vương |
Frère
Louis |
Vơ
Tánh |
Nguyễn
Trăi |
Frères
Guillerault |
Bùi
Chu |
Tôn
Thất Tùng |
Gallieni,
rue des Marins |
Trần
Hưng Đạo, Đồng Khánh |
Trần
Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2 |
Garcerie
|
Duy
Tân |
Phạm
Ngọc Thạch |
Général
Lizé |
Phan
Thanh Giản |
Điện
Biên Phủ |
Georges
Guynemer |
Vơ
Di Nguy |
Hồ
Tùng Mậu |
Huỳnh
Quan Tiên |
Hồ
Hảo Hớn |
Hồ
Hảo Hớn |
Jaccario
|
Tản
Đà |
Tản
Đà |
Jauréguiberry
|
Ngô
Thời Nhiệm |
Ngô
Thời Nhiệm |
La
Grandière |
Gia
Long |
Lư
Tự Trọng |
Lacaze
|
Nguyễn
Tri Phương |
Nguyễn
Tri Phương |
Lacote
|
Phạm
Hồng Thái |
Phạm
Hồng Thái |
Larégnère
|
Đoàn
Thị Điểm |
Trương
Định |
Legrand
De La Liraye |
Phan
Thanh Giản |
Điện
Biên Phủ |
Léon
Combes |
Sương
Nguyệt Ánh |
Sương
Nguyệt Anh |
Mac
Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle |
Công
Lư |
Nam
Kỳ khởi nghĩa |
Marins
|
Đồng
Khánh |
Trần
Hưng Đạo 2 |
Miss
Cavell |
Huyền
Trân Công Chúa |
Huyền
Trân Công Chúa |
Nancy
|
Cộng
Ḥa |
Nguyễn
Văn Cừ |
Nguyễn
Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho |
Phát
Diệm |
Trần
Đ́nh Xu |
Nguyễn
Văn Đưởm |
Nguyễn
Văn Đưởm |
Nguyễn
Văn Nghĩa |
Ohier
|
Tôn
Thất Thiệp |
Tôn
Thất Thiệp |
Paul
Blanchy |
Hai
Bà Trưng |
Hai
Bà Trưng |
Pavie,
Hui Bôn Hoả |
Lư
Thái Tổ |
Lư
Thái Tổ |
Pellerin
|
Pasteur
|
Pasteur
|
Phan
Thanh Giản |
Ngô
Tùng Châu |
Lê
Thị Riêng |
Pierre
Flandin |
Bà
Huyện Thanh Quan |
Bà
Huyện Thanh Quan |
Pierre
Pasquier |
Minh
Mạng |
Ngô
Gia Tự |
Place
Eugène Cuniac |
C.Trường
Quách Thị Trang |
C.Trường
Quách Thị Trang |
Place
Maréchal Joffre |
Công
Trường Quốc Tế |
Hồ
con Rùa |
Richaud
|
Phan
Đ́nh Phùng |
Nguyễn
Đ́nh Chiểu |
|
|
|
Somme |
Hàm
Nghi |
Hàm
Nghi |
Testard
|
Trần
Qúy Cáp |
Vơ
Văn Tần |
Thévenet
|
Tú
Xương |
Tú
Xương |
Tổng
Đốc Phương |
Tổng
Đốc Phương |
Châu
Văn Liêm |
Trương
Minh Kư, Lacant |
Trương
Minh Kư |
Nguyễn
Thị Diệu |
Verdun,Thái
Lập Thành, Gal Chanson,Nguyễn Văn Thinh |
Lê
Văn Duyệt |
Cách
mạng tháng 8 |
Ypres
|
Nguyễn
Văn Tráng |
Nguyễn
Văn Tráng |
11è
R.I.C. |
Nguyễn
Hoàng |
Trần
Phú |
|
|
|
BS Trần Ngọc
Quang
**************************
REFERENCE1
Tên đường phố Sài G̣n:
xưa (thời Pháp thuộc) và nay
(trước năm 1975)
theo Alphabet
(Đốt ḷ hương cũ)
(hăy zuy tŕ
dễ làm tài l;iệu tham khăo)
Nguyên Trần sưu tầm
Lối xưa xe
ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long thành hoài cổ-Bà Huyện Thanh Quan)
Trong niềm nhớ thương khôn nguôi về quê nhà
của một người Việt Nam ly hương c̣n nặng
t́nh hoài cổ, tôi xin cố gom góp trí nhớ c̣n sót lại
để ghi ra tên những đường phố Sài G̣n
thời xưa cũng như các cơ quan chính quyền,
cơ sở văn hóa giải trí đặc biệt trên
đó v́ e rằng đến một lúc nào mọi thứ
sẽ mai một đi th́ đáng tiếc lắm. Cho nên dù biết
rằng viết về những địa h́nh địa
vật của một thời xưa cách nay năm,sáu chục năm bằng vào trí nhớ kém
cỏi của cái tuổi gần thất thập cổ lai
hi là cả một khó khăn trùng điệp nhưng ḷng
hoài cổ trong con người tôi vẫn cố vượt
mọi trở ngại nhất là với sự góp ư bổ
túc đầy nhiệt t́nh của quư niên trưởng và các
bạn nên công việc đă hoàn thành cho dù chưa
được hoàn hảo. Chỉ mong ước nhỏ
nhoi là qua tài liệu nầy, chúng ta t́m lại h́nh ảnh
ngày xưa của chính chúng ta trên khắp nẻo
đường của Sài G̣n đẹp lắm
! Sài G̣n ơi! Sài G̣n ơi! Và hơn nữa chúng ta có
thể chỉ dẫn cho đàn con cháu nghe thấy về
thủ đô Sài G̣n, ḥn ngọc Viễn Đông, nơi mà cha
mẹ, ông bà chúng đă từng một thời sinh sống
và biết đâu chừng cũng là nơi đă từng
gặp gỡ của ba má sắp nhỏ qua mối t́nh
đầu.
Cũng xin chân thành cảm tạ sự đóng góp quư báu
của nhiều anh chị nhất là chị Đỗ Thanh
Vân (Đức Quốc), niên trưởng Trương
Thới Lai (Canada), anh Cao Thiế u Lang (Canada), anh Nguyễn
Đ́nh Phúc (Canada), anh Bùi văn Tâm (Canada), anh Trần Kiêu
Bạc (Mỹ), anh Trương Thúy Hậu (Mỹ)…Chính
nhờ những sự bổ túc đó mà hành tŕnh t́m về
con đường của dư hương ngày cũ
bớt nhiều thiếu sót. Và chúng tôi hy
vọng vẫn c̣n tiếp tục nhận được
những góp ư của quư bằng hữu bảng sưu
tầm chúng ta thêm hoàn chỉnh hơn. Xin
chân thành đa tạ.
Bây giờ mời các bạn cùng chúng tôi đi
dạo một ṿng quá khứ (back to the past) của một
thời hoa mộng trên thủ đô yêu dấu từng
đườc mệnh danh là Ḥn ngọc Viễn Đông.
Toronto March 15, 2009
Nguyên Trần
Tên thời Pháp thuộc -Tên thời
Việt Nam Cộng Ḥa
Boulevard Bonard - Lê Lợi ( Trụ sở Quốc
Hội-Nhà Hát Lớn, bệnh viện Đô Thành, nhà sách Khai
Trí,nước mía ḅ bía Viễn Đông, rạp Vĩnh
Lợi, quán cơm Thanh Bạch, quán giải khát Pôle Nord, Hà
Nội ice cream,quán kem Mai Hương,Thư Viện Abraham
Lincoln, Nhà hàng Kim Sơn, Bồng Lai)
Đường Lê L ợi Sài
G̣n
Boulevard
Chanson - Lê văn Duyệt Ngă Bảy trở
xuống(Trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công,, Chợ
Đủi, trụ sở Ṭa Đại Sứ Miên, nơi
hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu góc Phan
Đ́nh Phùng, rạp Nam Quang-ngă tư Trần Quư Cáp, rạp
Kinh Đô sau là văn pḥng Usaid, trường trung học
tư thục Trường Sơn, Câu Lạc Bộ Kỵ
Mă Sài G̣n)
Boulevard Charner - Nguyễn Huệ ( rạp Rex,
rạp Eden, passage Eden, Thương xá Tax, bánh ḿ pâté Đô
Chính, pḥng trà Queen Bee, Tổng Nha Ngân Khố, Kỹ
Thương Ngân Hàng, Hôtel Palace,Hăng Charner)
Sài G̣n đường
Nguyễn Huệ
Boulevard
Galliéni - Trần Hưng Đạo (Bộ Lao
Động, Nha Cảnh Sát Đô Thành, Sở Cứu Hỏa
Đô Thành rạp Nguyễn văn Hảo-Hưng
Đạo, rạp Đại Nam, vũ trường Tour
d’Ivoire,Bộ Tổng Tư Lệnh quân lực Đại
Hàn-Bộ Tổng Tham Mưu cũ, sân bóng rổ Tinh Vơ,Khiêu
vũ trường Vân Cảnh, Arc en Ciel, Đêm Màu Hồng,
trường tiểu học Tôn Thọ Tường, Nhà
thờ Tin Lành)
Boulevard Kitchener - Nguyễn Thái Học (
trường tiểu học Trương minh Kư,
trường tư thục Huỳnh Thúc Kháng, rạp Nam
Tiến, rạp cải lương Thành Xương ,
Chợ Cầu Ông Lănh)
Boulevard Norodom - Thống Nhất (Toà Đại
Sứ Mỹ, Phủ Thủ Tướng, Rạp
Norodom-Thống Nhất-xổ số quốc gia giúp
đồng bào ta mua lấy xe nhà giàu sang mấy
hồi-Trần văn Trạch , hăng nhập cảng xe
Peugeot Jean Compte, Bộ Tư Pháp, hăng Esso)
Boulevard Paul Bert - Trần Quang Khải (Đ́nh Nam
Chơn, rạp Văn Hoa)
Boulevard de la Somme - Hàm Nghi (Đài Pháp Á,
Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín,BanqueFranco-Indochinoise,
Tổng Nha Thuế Vụ, chợ Chó,chợ Chim,trung tâm
Cờ Tướng, tiệm incils quân đội Phước
Hùng)
Rue - 11e RIC (Régiment d’Infanrerie Colonniale)- Nguyễn Hoàng (bến xe
lục tỉnh, cư xá hỏa xa)
- Abattoir - Hưng Phú
(Ḷ Heo Chánh Hưng)
- d’Adran - Vơ Di Nguy
Phú
Nhuận(Chợ Phú Nhuận, rạp Văn Cầm, rạp
Cẩm Vân, cư xá Phú Nhuận)
- Albert 1er - Đinh Tiên Hoàng ( Sân vận động Hào Thành-Hoa
Lư-Citadelle, Tổng Nha Thanh Niên, Asam Đakao, ḿ Cây Nhăn,Chè
Hiển Khánh)
- Alexandre de Rhodes - Lục Tỉnh ( trung tâm quân báo
Cây Mai, ḅ 7 món Ngân Đ́nh) , đường Alexandre de Rhodes
tới thời Cộng Ḥa thay thế đường
Paracels trước dinh Độc Lập
- Alexandre Frostin - Bà Lê Chân(hông chợ Tân
Định, rạp Moderne sau đổi là Kinh Thành)
- Alsace Loraine - Phó Đức Chính(biệt
thự chú Hỏa-Hui Bon Hoa)
- Amiral Dupré - Thái LậpThành
- Amiral Roze - Trương Công Định (Chùa
Chà,chạy xuyên qua vườn Tao Đàn- Vườn Pelouse)
- d’Arfeuille - Nguyễn Đ́nh Chiểu
- Armand Rousseau - Hùng Vương( Trường
Trung Học Chu văn An ,cư xá sinh viên Sài G̣n)
- d’Arras - Cống Quỳnh (Bệnh viện Từ Dũ,
rạp Khải Hoàn, trường trung học tư thục
Hưng Đạo-Giáo Sư Nguyễn văn Phú)
- Arroyo de l’Avalanche - Rạch Thị Nghè
- Audouit - Cao Thắng ( rạp Việt Long, rạp
Đại Đồng Sài G̣n, Chùa Tam Tông Miếu, bánh ḿ pâté
Pḥ Mă, tư gia nhạc sĩ Dương Thi ệu
Tước, Lâm Tuy ền)
- d’Ayot - Nguyễn văn Sâm(rạp Kim Châu)
- Ballande- Nguyễn Khắc Nhu
- Barbier - Lư Trần Quán(chả cá Thăng Long)
- Barbé - Lê Quư Đôn (Trung Học Lê Quư
Đôn-Chasseloup Laubat)
- Blan Subé - Duy Tân
(Viện
Đại Học Sài G̣n,Đại Học Luật Khoa, công
trường Chiến Sĩ Con Rùa, Vương Cung Thánh
Đường)
- Bourdais - Calmette
- Catinat - Tự Do
( Bộ Nội Vụ, bánh ḿ pâté Hương Lan, Nhà Hàng
Caravelle, Nhà Hàng Continental Palace, La Pagode, Brodard, Vũ
trường Maxim’s, Hotel Restaurant Majestic, rạp Majestic,Tiệm
quư kim Đức Âm, nhà may Cát Phương, Adam,Tân Tân, Pḥng
Thông Tin cho các cuộc triễn lăm)
Sài G̣n-Rue Catinat
-
Chaigneau- Tôn Thất Đạm( khu Chợ Cũ, rạp Nam
Việt)
- Champagne - Yên Đổ (Cư xá Đắc Lộ,
trường Anh Ngữ Khải Minh)
- Charles de Coppe - Hoàng Diệu ( hiệu giày Gia, quán
nhậuTư Sanh Khánh Hộ-cari dê)
- Charles Thomson - Hồng Bàng (bệnh biện Hồng
Bàng, đại học Nha Khoa)
Ṭa Đô Chánh Sài G̣n( Xă Tây)
-
Chasseloup Laubat - Hồng Thập Tự ( Trường
Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Hội Hồng Thập Tự
Việt Nam, RạpOlympic, bàn ghế Phan văn Nhị, khu
quán cháo vịt, Bộ Y Tế, Bộ Tài Chánh, Tổng Nha
Ngân Sách Ngoại Viện, Cơ quan Tiếp Vận Trung
Ương, Hông vườn Tao Đàn-vườn Ông
Thượng- vườn Bờ Rô-Pelouse, Hông Dinh
Độc Lập, Hông Thảo Cầm Viên, trường
trung học kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ)
- Colonel Budonnet- Lê Lai (Rạp Aristo, tiệm bánh
trung thu Tân Tân, cơm chay Vạn Lộc)
- Colonel Grimaud - Phạm ngũ Lăo (Chợ Thái
B́nh, ṭa soạn nhật báo SàiG̣n Mới- bà Bút Trà, rạp
Thái B́nh, ga xe lửa, quày bán vé Hàng Không Việt Nam)
- Cornulier - Thi Sách
- Danel - Phạm đ́nh Hổ
- Denis Frères- Ngô Đức Kế (Ngân hàng Quốc Gia Việt
Nam)
- Dixmude- Đề Thám
- Docteur Angier - Nguyễn Bỉnh Khiêm (Thảo
Cầm Viên hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tổng Nha
Trung Tiểu Học&B́nh Dân GiáoDục, trường Trung
Học Trưng Vương, Vơ Trường Toản, Nha An
Ninh QuânĐội)
- Docteur Yersin - Kư Con
- Đỗ Hữu Vị - Huỳnh Thúc Kháng (Trường
trung học kỹ thuật Cao Thắng,khu chợ Trời)
- Douaumont- Cô Giang
(chợ, rạp hát Cầu Muối)
- Dumortier - Cô Bắc ( hăng cao su Labbé)
- Duranton - Bùi thị Xuân( trường trung học
Nguyễn Bá Ṭng, trường Les Lauriers)
- Eyriaud des Verges - Trương Minh Giảng (Chợ
Trương Minh Gi ảng, rạp Văn Lang, cổng xe
lửa số 6, Viện Đại học Vạn Hạnh)
- l’Église - Trần B́nh Trọng( Hôtel Massage Hồng Tá)
- d’Espagne - Lê Thánh Tôn
(Ṭa Đô Chánh, Cửa Bắc Chợ Bến Thành,tiệm
vàng Nguyễn Thế Tài-Thế Năng, tiệm incils quân
đội An Thành, Rạp Lê L ợi, nhà may Văn Quân)
Thư viện Abraham Lincoln(Góc Lê L ợi-Tự Do)
và cũng là ṭa soạn tạp chí thế giới tự do(
Free World)
-
Eyriaud des Verges - Trương Minh Giảng (Chợ
Trương Minh Gi ảng, rạp Văn Lang, cổng xe
lửa số 6, Viện Đại học Vạn Hạnh)
- Faucault - Trần Khắc Chân
- Frère Louis - Nguyễn Trăi từ Ngă Tư Cộng Hoà
đổ vô Chợ Lớn (trung tâm đào tạo huấn
luyện viên thanh niên thể thao,Nhà thờ Chợ quán)
- Frère Louis - Vơ Tánh (Sài
G̣n) từ Ngă Tư Cộng Ḥa đổ xuống Ngă Sáu
(cổngchính Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, rạp hát
Quốc Thanh, phở 79, nhà mồ Á Thánh Matthew Gẫm,
trường nữ trung học tư thục Đức
Trí)
- Frère Guilleraut - Bùi Chu (Nhà thờ Huyện Sĩ)
- Filippiny - Nguyễn Trung Trực (Nhà hàng Thanh Thế với
tuyệt chiêu suôn, nhà hàng Quốc Tế, Bồng Lai, Kim
Sơn, rạp Les Tropiques, Văn Khoa cũ, Pháp Đ́nh Sài
G̣n)
Đường Hồng
Thập Tự Sài G̣n
-
Fonck - Đoàn Nhữ Hài
- Gallimard - Nguyễn Huy Tự
- Gaudot - Khổng Tử (Chợ B́nh Tây)
- Georges Guynomer - Vơ Di Nguy Sài G̣n(Khu Chợ Cũ)
- Guillaume Martin - Đỗ Thành Nhân
- Hamelin - Hồ văn Ngà
- Heurteaux - Nguyễn Trường Tộ
- Hui Bon Hoa - Lư Thái Tổ (Phở Tàu Bay, quán Hạ
Cờ Tây)
- Jaccaréo - Tản Đà (khu tiệm thuốc Bắc)
- Jauréguiberry - Hồ Xuân Hương ( Bệnh
viện da liễu-Bạc Hà)
- Jean Eudel - Tŕnh Minh Thế (thương cảng Sài G̣n, kho 5,
kho 10)
- Lacaze - Nguyễn Tri Phương ( Ḿ vịt tiềm Lacaze,
hủ tiếu Mỹ Tiên, hủ tiếu Cả Cần, bánh
bao bà Năm Sa Đéc, quán ṣ huyết lề
đường)
- Lacotte - Phạm Hồng Thái (toà soạn nhật báo Dân
Ta-ông Nguyễn Vỹ)
- Lacaut - Trương Minh Kư(Lăng Cha Cả-Linh mục
Bá Đa Lộc-Pigneau de Béhaines)
- De Lagrandière- Gia Long ( Dinh Gia Long, Bộ Quốc
Pḥng, Thư viện Quốc Gia, rạp Long Phụng- phim
Ấn