Lê Hân, ‘Ngọn t́nh lục bát’

‘tiểu truyện’ văn nghệ sĩ

Du Tử Lê

 

Từ trái qua: Từ Công Phụng, Luân Hoán, Song Thao, Lê Hân. (H́nh LuanHoan)

Từ trái qua: Từ Công Phụng, Luân Hoán, Song Thao, Lê Hân.

(H́nh LuanHoan)

 

 

Sau thi phẩm “T́nh thơm mấy nhánh (XB năm 2003), nhà thơ Lê Hân, đă gửi tới những người yêu thơ tác phẩm thứ hai: “Ngọn t́nh lục bát” (NTLB), do nhà Nhân Ảnh, Canada, ấn hành; với b́a và phụ bản tranh Khánh Trường.

Như tên gọi, NTLB của họ Lê gồm trên dưới 150 bài thơ lục bát, trải dài trên 262 trang sách, khổ lớn.

Mở đầu thi phẩm NTLB gồm 5 phần là “Thiên Nhiên Xuất Sắc,” “Quê Hương,” “Gia Đ́nh” “Thầy, Cô, Bè Bạn” và “Văn Nghệ Sĩ,” là bài thơ như một “tuyên ngôn” chung cho toàn tập; Lê Hân viết:

mẹ ươm hạt giống ca dao
nở nhánh lục bát ngọt ngào Việt Nam
trời c̣n tinh khiết trăng vàng
đời c̣n sáu tám nồng nàn ấm tay
lót ḷng người nụ thơ này
tinh túy dân tộc càng ngày càng thơm…”
(Trích “mở cửa ‘Ngọn T́nh Lục Bát’”)

 

Như “tuyên ngôn” được chọn, để mở vào tuyển tập, trên dưới 150 bài lục bát của Lê Hân đều ngọt ngào ḍng chảy ca dao. Chi tiết hơn, ở vị trí người đọc, nhận định riêng của tôi là, dù phân chia từng lănh vực nhưng, có hai ngọn cờ được kéo lên cao nhất, nổi bật nhất đó là: Nơi chốn (gắn liền với tuổi thơ, gia đ́nh, quê hương) và, tấm ḷng trân, quư của tác giả dành cho giới văn nghệ sĩ.

Về nơi chốn, qua nhiều trang thơ, người đọc gặp được những h́nh ảnh quen thuộc của quê hương, đất nước. Từ “chim trong sân sau nhà”:

nhà em có cây thầu đâu
cả ngày chim sẻ chim sâu quây quần
cành thanh lá mỏng rung rung
hát theo cơn gió ḥa cùng tiếng chim…”

Tới “Mưa núi”:

ḷng không dưng nhớ bâng khuâng
thương về một thuở xa xăm mịt mù
thời c̣n ẵm ngửa tản cư
trong ḷng cha mẹ dường như vẫn c̣n

lên hai từ giữa núi non
Tiên Châu, Tiên Phước chon von đỉnh trời
mái tranh, nền đất nện ngồi
ngó trời mưa phủ ngút hơi đá già…”

Hoặc:

nơi chôn cuống rún của ta
vẫn c̣n nguyên tại nơi xa bạt ngàn
Hội An ơi hỡi Hội An
trong ta chỉ sót tiếng vang xa vời…”
(Trích “mưa trên phố ấu thơ”)

Hoặc:

“qua sông bằng cây cầu quay
Về bằng cầu có rồng bay là là
Đă Nẵng quả thật phồn hoa
Nhưng h́nh như chẳng xa hoa chút nào…”
(Trích “qua sông Hàn”)

Hoặc nữa:

ba em là một ông già
tóc râu… xanh biếc làn da hồng hào
dáng người thanh cảnh cao cao
nụ cười ánh mắt chừng thao thức buồn
(Trích “ba em”)

Về tấm ḷng trân, quư mà tác giả NTLB dành cho giới văn nghệ sĩ, người ta thấy, dường như không thiếu một nghệ sĩ tên tuổi nào. Từ thế hệ tiền chiến như Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, tới lớp trẻ hơn một chút như Phạm Đ́nh Chương, Hoàng Thi thơ, Y Vân… Rồi tới thế hệ Trịnh Công Sơn, Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng v.v… Về phía thi sĩ, họa sĩ, tác giả đề cặp tới những tên tuổi quen thuộc như Khánh Trường, Thành Tôn, Song Thao v.v…

Đặc biệt là những văn nghệ sĩ được Lê Hân nhắc tới, đều hiện ra trong lục bát họ lê với tựa đề những tác phẩm tiêu biểu của họ; hoặc những nét chính làm thành chân dung tác giả đó.

Thí dụ trong bài “Nhớ người của Hội Trùng Dương” – Tưởng niệm nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương, Lê Hân đă mang vào được trong thơ của ḿnh, khá đầy đủ tựa đề những ca khúc nổi tiếng nhất của họ Phạm như: “Mộng dưới hoa, Đợi chờ, Mắt buồn, Đêm màu hồng, Hội Trùng Dương, Tiếng dân chài, Ly rượu mừng, v.v…”

Cũng vậy, khi đề cập tới Phạm Duy, th́ mấy chục nhạc phẩm nổi tiếng nhất của người nhạc sĩ ngoại khổ này, cũng đă được Lê Hân khéo léo mang vào lục bát của ḿnh…

Tôi cho đó là một nỗ lực đáng kể của họ Lê.

Trước khi thi phẩm NTLB ra đời, họ Lê đă cho ấn hành thi phẩm “T́nh thơm mấy nhánh” năm 2003.

Về “T́nh thơm mấy nhánh,” ở thời điểm đó, Giáo Sư Đàm Trung Pháp trong một bài viết, có đoạn ghi nhận như sau:

“…Cơi vô cùng thế gian bàng bạc trong thơ Lê Hân để đón mời người yêu đi vào t́nh sử, như trong các bài ‘Đón Xuân,’ ‘Áo Vàng Hoa Tím’ và ‘Em, Biển và Trăng,’ cả ba bài đều phảng phất hồn thơ Đinh Hùng, một trong những thi nhân mà anh ngưỡng mộ. Những đoạn thơ mượt mà sau đây từ các bài ấy của Lê Hân đă làm sống lại trong tôi những giấc mơ kỳ thú của thời son trẻ:

biết đâu chừng hai chúng ta
bay vào vũ trụ nhặt sao sa
mỗi sao là một con chim nhỏ
biết thở, biết cười, biết hát ca”
(Đón Xuân)

(…)

“Lê Hân cũng chịu ảnh hưởng Nguyễn Bính, một nhà thơ nữa mà anh mến mộ. Đoạn lục bát sau đây trong bài “Tà Áo Mùa Thu” là một lời mời mọc Nàng Thơ vô cùng dễ thương. Nàng Thơ nào mà có thể khước từ lời dụ dỗ này nhỉ? Tôi đoán nếu Nguyễn Bính c̣n sống, chắc ông cũng sẽ gật đầu tán thưởng:

mùa Thu vốn của đất trời
và em vốn của những người làm thơ
tôi trồng tỉa những sợi tơ
mời em bước xuống những tờ hoa tiên”

“Lê Hân cũng mê cỏ cây hoa lá, như anh đă thổ lộ trong bài ‘Trong Vườn Hoa Tôi.’ Anh yêu đủ mọi loại hoa trong vườn được anh nhân cách hóa, từ vạn thọ đơn khoác áo vàng đến thược dược mảnh mai đứng bâng khuâng đến pensée nằm trong từng cánh nhung vàng đến các loại hồng, và anh yêu chúng kiểu này:

yêu hoa
không thể ngắm chơi
cùng thơ, thở giữa đất trời với hoa”

Anh khéo lắm, yêu mọi loài hoa chỉ là cái cớ để anh nói lên tấm ḷng của anh đối với bông hoa ‘nói tiếng người’ hôm ấy vắng mặt trong vườn…”.

Qua những đoạn trích dẫn trên của Giáo Sư Đàm Trung Pháp, tôi muốn nhắc tới một khía cạnh khác, trong thơ Lê Hân, đó là t́nh yêu thiên nhiên; hay thiên nhiên, một nhánh sông khác, trong ḍng sông thi ca họ Lê.

Tuy nhiên, với tôi, dù ở khía cạnh nào th́ tính ca dao, xuôi chảy dễ dàng trong thơ Lê Hân, vẫn là cây bài chủ hay, con ách chuồn của cơi-giới thi ca Lê Hân vậy.

Du Tử
(Garden Grove, Sept. 2016)

Nguồn:  http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/le-han-ngon-tinh-luc-bat-va-tieu-truyen-van-nghe-si/

(September 9, 2016)