Bà bạn đến nhờ coi
bệnh cho người quen. Đó là một
phụ nữ trang bị “nhiều đồ phụ tùng
". Cẳng tay bị che mất
1/3 bởi vòng vàng gây trở ngại cho bắt
mạch. Sau khi khám bệnh, tôi nói:
- Xin lổi . Chị đi cầu Phân màu gì, mặt phân có láng không ?
- Không biết.
- Khi đi cầu, cục phân
đầu tiên khô cứng như hòn sỏi..
Nhưng sau đó phân còn cứng hay mềm ?
- Không biết.
- Trời đất, hỏi gì
chị cũng không biết. Chị chỉ lo
cái vỏ là săn sóc sắc đẹp và đeo nữ
trang còn “bộ đồ lòng” thì bỏ phế, nát bấy
đủ thứ bệnh. “ăn
thua ở cái lòng”, “xấu bụng” thì bên ngoài làm sao tốt
đẹp được. Mỗi ngày đi cầu nhớ
quan sát phân cho kỹ: màu sắc, khô hay láng, cứng mềm
và nhất là có mùi thối không. Trước mắt ăn
nhiều cà dái dê. Tuần sau trở lại cho
biết chi tiết.
Sau khi thiếu
phụ ra về, bà bạn cự nự:
- Ông này bất lịch sự.
Người ta làm ăn lớn, tiền cuả bạc
tỷ mà ông bảo xem phân, ngửi phân có thối không.
- Ngửi phân và xem phân là cách xét
nghiệm gan mật chính xác nhất.
- Thế sao không kê toa cho
người ta đi “bốc” mà tục tĩu
dặn Cà dái dê.
- Đã chẩn bệnh xong đâu mà
đề cập “toa” với
“bốc”. Tạm thời cho ăn cà dái dê để mát gan,
thông mật. Tôi có nói bậy gì đâu mà chị cự tôi ?
- Nói khéo một chút, thay vì cà dái dê thì
bảo cà tím.
- Thôi đi bà ơi. Bảo cà tím,
nhỡ chị ta ăn cà pháo tím là
“vỡ nợ”.
Cà dái dê hay cà
tím có tên khoa
học là Solanum melongena, họ Cà. Quả dài lòng thòng với hình
dáng như tinh hoàn dê dực nên có tên Cà dái dê. Gọi tên cà tím là
không chính xác vì một vài loại cà khác cũng màu tím.
Hơn nữa Cà
dái dê có hai loài: quả
xanh ánh tím và quả tím.
Có người nói ăn cà dái dê
bị nhức mỏi. Đúng thôi, đó là ăn
quả cà còn xanh non nên nhiều solanin ;
lượng solanin giảm khi chín. Cà dái dê nướng có mùi thơm hấp dẫn do solanin.
Hãy chọn quả vừa chín
tới nghĩa là không còn cứng nữa. Hãy lưạ quả có da bóng
mượt và đồng màu, không có vết trầy. Dùng ngón tay
ấn vào rồi buông ra, vỏ quả phồng trở
lại là quả còn tươi. Vỏ nhân nhúm
là bị héo.
100g cà tím sinh 23 calori, có thành phần như sau: 92%
nước, 5,5% glucid, 1,3% protein, 220mg kali, 15mg photpho, 12mg
manhê, 10ng calci, 15mg lưu huỳnh, 0,5mg sắt, 0,2mg mangan,
0,2mg kẽm, rất ít vitamin. Ruột quả
nhiều chất nhày. Vỏ quả có violantine, một
chất thuộc nhóm anthocyanosid.
Theo Y học dân
gian, cà dái dê có tính mát gan, thông mật, nhuận tràng, thông
tiểu, điều hoà tiêu hoá.
Thức ăn thường
làm là nướng, xào mỡ, bung, um, xào thịt…Nóng quá làm cà
nhão mất ngon. Ruột cà nhầy nhão lại
tưởng là có chất dầu, thật ra cà dái dê không có
dầu mỡ.
Khi ăn cà dái dê nên ăn cả vỏ vì
villantine ở vỏ quả có tính
chống oxy-hoá.
Cà dái dê làm tăng tiết mật và dịch
tụy, giúp tiêu hoá thức ăn. Cholesterol
trong mật nhũ hoá chất béo để có thể
hấp thụ qua thành ruột. Trypsin
trong dịch tụy thủy phân protein thành albumin và aminoacid.
Mật còn làm tăng nhu động ruột.
Cà này trị ăn không tiêu, đầy bụng.
Nếu tiêu hoá tốt thì phân có
mùi thối.
Khi phân không thối là tiêu hoá có vấn
đề, có thể do tạp khuẩn ruột thiếu men
xình thối.
2-Trị táo bón.
· Đông y cho rằng
táo bón có nhiều nguyên nhân nhưng thường do âm suy nên rút hết nước vào cơ
thể, phân khô cứng.
· Chất xơ làm phân tăng thể tích
và không đóng tảng.
· Chất nhầy làm phân trơn
nhuận.
· Người âm suy vàtáo bón thì da không
trơn nhuận. Nếu chỉ dùng mỹ
phẩm chăm sóc cái vỏ ngoài mà không ngăn chặn táo
bón thì da không thể mịn màng tươi mát.
Gan tiết mật, cholesterol là thành phần quan
trọng cuả mật. Ruột có cholesterol
cuả mật và trong thực phẩm (thịt, trứng).
- Chất béo cần nhờ cholesterol nhũ hoá mới
ngấm được vào máu. Chất nhày
cuả cà dái dê ngoại hấp cholesterol. Chất này
bị khoá hoạt tính nên không hoàn thành chức năng,
chất béo không được nhũ hoá nên ở lại
ruột.
Cả cholesterol
và chất béo lưu lại trong ruột để rồi
di chuyển xuống ruột gìa và bài xuất theo phân. Cơ thể không
được tiếp tế cholesterol và chất béo,
chẳng những thế mật còn kéo theo
cholestrol. Kết quả là cholesterol và chất
béo trong máu đều giảm. An Cà dái dê chính là cách
giảm cholesterol- huyết và triglycerid- huyết an toàn
nhất.Một
quả cà tím nướng có khả năng hấp thụ
83g chất béo trong 70 giây, cao gấp 4 lần khoai.
Không
được tiếp tế thêm, cơ thể tiêu thụ
mỡ dự trữ nên thân trọng giảm. Điều
cần biết là nên giảm thân trọng từ từ
để cơ thể co thới gian thích nghi. Nếu giảm cân nhanh thì
sẽ lên cân trở lại mấy hồi..
Thân trọng tăng giảm nhanh và nhiều
lần sẽ gây xáo trộn sinh lý.
Cà dái dê có khả năng sinh nhiệt thấp
kèm với chất xơ và chất nhày nên giảm cân
tốt.Nên thêm cà
dái dê vào thực đơn cuả ngườii mập phì,
cao huyết áp, tiểu đường.
Chất béo không tan trong huyết tương nên
phải núp dưới dạng kết hợp với
cholesterol và apoprotein gọi là lipoprotein. Lipoprotein
lại chia ra nhiều loại nhưng chỉ có 2 loại
làm chúng ta lưu tâm là lipoprotein LDL (low density) và HDL (hignh
density).
Lipoprotein LDL
dư thưà (nhân dân gọi là máu nhiễm mỡ) dễ
bị oxy-hoá, tăng kết đọng tiểu cầu
(tạo cục máu) và gây xơ động mạch. Động
mạch bị giòn cứng và giảm khẩu độ,
dẫn tới cao huyết áp, thiểu năng động
mạch vành.
Nếu tảng xơ động mạch hoặc cục
máu di chuyển tới tim gây gây
đột tử (nhân dân gọi là chết không kịp
ngáp), nếu lên não sẽ gây tai biến não. Chất nhày cuả cà dái dê làm giảm
triglycerid và cholesterol cũng làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Các tài liệu
cuả Đại học Berkeley, Johns Hopkins, Harvard, Tufts
gần đây còn cho biết, thực đơn nhiều
chất xơ và kali cũng giảm nguy cơ đột
tử và tai biến não (xem bài Chuối, Món ăn-bài thuốc
).
Chất chống oxy-hoá
(violantine) trong cà dái dê cũng tham gia ngăn chặn sự
oxy-hoa lipoprotein LDL.
Đa số thuốc giảm
cholesterol đều đắt tiền và có độc tính. Với căn bệnh này
phải uống thuốc dài hạn nên cần tính chi li chi
phí trị liệu. – ăn Cà dái dê là cách
dùng thuốc hay nhất: an toàn,rẻ tiền,dễ
kiếm và còn khoái khẩu nữa.
Cà dái dê
đạt những tiêu chuẩn biên soạn sách Món
ăn-bài thuốc.
Hãy ăn cà dái dê
nướng. Nhớ
đừng tưới thêm dầu mỡ.
Cũng không ăn cà dái dê xào mỡ.
Món cà tím bung
với đậu hủ, thịt nạc cũng thích
hợp với trường hợp này.
Món cà dái dê
lăn bột chiên chỉ ăn ít vì có chất béo và
trứng.
Thực
đơn nhiều thịt làm tăng urê-huyết. Purine trong thịt và đậu nành tích
tụ gây bệnh thống phong với triệu chứng
đau khớp ; điểmđau di
chuyểntừ khớp này sang khớp khác chứ không
ở một vị trí như bệnh thấp khớp.
Cà dái dê thông
tiểu, tăng thải urê và acid uric.