Mơ ước làm thy giáo

Trn Lâm Phát

 

 

Tác giả: Trần-Lâm Phát

 

 

Năm tôi lên tám, dân chúng trong làng tôi nhộn nhịp với thời ḥa b́nh. Những đêm trăng sáng, tiếng chày giă gạo ḥa âm cùng những câu ca điệu “Lư con sáo” (một điệu ca cổ nhạc Nam phần) làm cho sức sống tăng thêm gấp bội phần. Sáng nào các bà, các bác, các cô cũng nối tiếp gánh hàng ra chợ Trảng Bàng trong tiếng cười rộn ră.

 

Một hôm bỗng dưng mọi người dồn cục trên đường làng. Nơi cổng làng, các vị làng xă và thầy giáo bắt mọi  người phải đọc được hai câu phấn trắng trên nền bảng xanh rồi mới được đi chợ. Nếu ai không đọc được th́ phải quay trở về.  Đó là phong trào chống nạn mù chữ của làng tôi.  Hai câu thơ ấy không bao giờ tôi quên được v́ tôi hướng dẫn má tôi đánh vần hàng ngày để má có thể gánh hàng ra chợ bán.

 

Cô kia má đỏ hồng hồng,

V́ không biết chữ nên chồng cô chê.

 

        Tôi hỏi má tôi tại sao bà con không học thuộc ḷng để có thể đi chợ được. Má tôi bảo rằng chính phủ đang diệt trừ nạn mù chữ mà các thầy ngoài xóm nói là “giặc dốt.” Hơn nữa Khổng Tử dạy trong sách Luận ngữ  rằng “ Biết th́ nói biết, không biết th́ nói không biết” ("Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dă 知之为知之,不知为不知,是知也"). Tên học tṛ lớp ba nào có biết “có biết, không biết” là cái ǵ rồi cũng gật đầu dạ dạ.  Có một lần ngồi bên cạnh mẹ, mẹ tôi chẻ nan c̣n tôi th́ đan rổ, mẹ tôi khẽ nói: “Con à! con phải học cho giỏi rồi về chỉ má đánh vần và đọc, không th́ cả nhà sẽ đói v́ má không ra chợ được.”

 

Tôi thoáng nghe qua "cả nhà sẽ đói" th́ tôi hốt hoảng lên, tay chân như cái đuôi con thằn lằn bị chặt đứt. Từ đó ngày nào hai mẹ con cũng tập đánh vần và tôi cũng khám phá ra cách mới để mẹ tôi dễ nhận dạng ra chữ cái.

 

Năm tôi lên mười, mẹ tôi đă nhận dạng ra được mặt chữ, đánh vần và phát âm, đọc những bài trong sách giáo khoa như “nạn lụt”, “hạn hán” v.v. nhưng không thể viết thành câu được. Tôi th́ thầm lẩm bẩm: “Ước ǵ ḿnh là thầy giáo th́ sẽ có cách chỉ cho mẹ viết”. Mẹ tôi nghe được, bèn ôm tôi vào ḷng, rồi mặt tôi có hai giọt nước nóng, th́ ra mẹ tôi đă khóc. Tôi an ủi mẹ và hứa rằng tôi sẽ làm thầy giáo để hướng dẫn bà con trong làng biết chữ. Rồi từ đó trở đi mẹ bắt tôi ra đồng làm việc cực nhọc hơn; những khi rảnh rỗi phải theo ba đi xây nhà cho thiên hạ. Ba tôi giao cho tôi chuốt viết ch́, mài đục và giũa lưỡi cưa. Tất cả việc phải làm tôi đều ghét cả. Tôi có cái tính nói lẩm bẩm một ḿnh khi tôi không vui “Con nhất định không làm thợ mộc và cũng không làm ruộng hay đan thúng đan rổ như ba má”. Ba tôi ngước đầu lên nh́n tôi và mỉm cười rồi nói: “Nhất sĩ nh́ nông”. Tôi tự nhủ: "Đúng vậy! phải đi học, phải làm thầy giáo để không phải đan thúng, giũa cưa". Sau này khi tôi 16 tuổi th́ tôi hiểu được lư do ba mẹ bắt tôi phải làm những việc cực nhọc và việc tôi không thích: song thân tôi chỉ muốn tôi nên người, có học vấn. Đó là cách dạy con của song thân tôi. Năm tôi 17 tuổi,  bắt đầu biết ơn cha mẹ th́ mẹ tôi vội vă ĺa đời theo ông bà tôi.

 

Một hôm một nhóm chúng tôi bị thầy Hiệu trưởng Ẩn kêu lên văn pḥng và bảo chúng tôi về nhà v́ chúng tôi không có giấy khai sinh. Chúng tôi qú, lạy lục nhưng ông Hiệu trưởng từ tốn bảo chúng tôi về nhà thưa với cha mẹ, đi làm giấy khai sanh rồi mới trở lại trường được. Trên đường về nhà, buổi trưa hè oi bức làm cho tôi cảm thấy mất đi cả sức lực. Tôi vừa đi vừa lẩm bẩm: “Cả làng ḿnh sẽ không được đi chợ v́ ḿnh không có cơ hội làm thầy giáo”. Trong lúc tôi trầm ngâm suy nghĩ th́ có tiếng ai ru con văng vẳng từ xa:

 

        Ầu …… ơ ……ơ,

Văn chương phú lục chẳng hay,

        Trở về làng cũ  ầu …ơ ….ơ,

Trở về làng cũ,cấy cài cho xong.

 

Hứ! tôi không đi cày, tôi không làm rẫy, tôi không đan thúng chẻ tre nữa. "Tôi không thích làm những việc ấy!" Tôi hét lên.

 

Nh́n xung quanh, chỉ có một ḿnh tôi dưới hàng tre làng, tôi vội vă bước nhanh để về mét mẹ nhưng tôi lại đổi ư và ghé qua chỗ ba tôi cất nhà cho bà Năm. Vừa chợt thấy tôi, ba tôi ngừng tay và hỏi: “Có chuyện ǵ mà con về sớm vậy?” Tôi ̣a lên khóc, và kể chuyện bị đuổi học. Bác sáu Đỉnh, người cùng làm nhà với ba tôi cũng ngừng tay, nhăn trán một chút rồi nói với ba tôi: “Chú Hai à! hay là cả xóm ḿnh rủ nhau lên ṭa xin giấy khai sinh cho các cháu, tôi sẽ đi theo làm chứng!”.  Ba tôi khe khẽ nói: “Tiền đâu mà mướn xe và lên tỉnh. Các nhân chứng đều không biết chữ làm sao mà nhớ  ngày sinh tháng đẻ của tụi nó”.  Ba tôi kêu tôi về nhà phụ giúp mẹ và chờ đến chiều ba tôi sẽ bàn với mẹ tôi. Tôi lê bước về nhà với mặt đưa đám ma.

 

Mẹ tôi đang ngồi chẻ nan bèn đứng dậy, lật đật đến bên tôi và hỏi: “Con sao vậy ? Con bị trúng gió hả ? Để má cạo gió rồi nấu nước cho con xông”. Tôi ôm gh́ lấy mẹ và nức nở thút thít: “Con phải đi chăn ḅ và không làm thầy giáo được v́ con bị đuổi ra khỏi trường”.

 

Tối hôm ấy các cha mẹ có con bị đuổi học đến nhà tôi và yêu cầu ba tôi lên nhà ông út Nhiển để nhờ xin cho các cháu được trở lại lớp học. Ba tôi buồn bă trả lời “Ông Hiệu trưởng đuổi chứ không phải thầy cô giáo!” Mọi người bàn tán xôn xao rồi ba tôi đưa ư kiến: “Cứ chọn ngày dễ nhớ, đừng lấy ngày thiệt v́ không ai nhớ hết các cháu đâu”.  Ai cũng bắt đầu chọn ngày sinh cho con ḿnh. Ba tôi và Cậu Tư tôi chọn cho anh họ tôi ngày 9 tháng 9 năm 1949, anh tôi ngày 7 tháng 7 năm 1948. và tôi ngày 10 tháng 10 năm 1950 (mặc dù tôi sanh ngày 18 tháng 8 năm 1950). Rồi cứ hàng đêm các nhân chứng đến nhà tôi để học nhớ ngày sinh tháng đẻ. Ông út Nhiển giả làm quan ṭa (Ông út là thầy giáo) và chỉ tay về phía chúng tôi và hỏi nhân chứng ngày sinh nhật của chúng tôi. Hàng ngày mẹ tôi và tôi cứ hỏi nhau ngày sinh của anh tôi và của tôi.

 

Một tháng trôi qua, tôi và các bạn hàng xóm vẫn đến trường nhưng không được vào lớp. Tôi đứng ngoài hàng hiên nh́n qua cửa sổ để chép bài và nghe cô Khéo giảng bài với cây thước trong tay nhịp lên nhịp xuống. Đến giờ chơi, các bạn ùa ra ôm chầm lấy tôi và chúng tôi nô đùa như không có chuyện ǵ. Rồi một hôm xóm tôi nhận được trát hầu ṭa và ai nấy sửa soạn lên ṭa án Tây Ninh. Đêm hôm đó khi nghe tiếng gà gáy canh ba (nhà ba má tôi không có đồng hồ),  mẹ tôi đánh thức mọi người, thay quần áo và đi bộ đến chỗ tập trung để ngồi xe lên tỉnh. Xe vừa đến ngă tư cầu cống ở chợ Trảng Bàng th́ anh Bảy tôi đă đứng chờ với chú Tám Lộc (thầy giáo Lộc).

 

        Sau hơn hai tiếng đồng hồ, xe đă lên đến tỉnh. Chú Tám Lộc dẫn mọi người đi vô khu ṭa án. Khi cảnh sát mở hai cánh cửa và đọc tên từng người để vào hầu ṭa, lúc đó tim tôi đập th́nh thịch. Nh́n ông Ṭa với bộ quần áo đen chễm chệ ngồi trên ghế trông giống như một ông vua trong h́nh b́a của cuốn tuồng cải lương, tôi thầm nghĩ chắc ông ṭa rất minh mẫn và khó tính. Quan ṭa chậm răi gọi tên từng đứa bé rồi hỏi cha mẹ và nhân chứng ngày sinh nhật của đứa bé. Mọi người đều trả lời đúng nhưng quan ṭa chỉ cho một miếng giấy tạm để về đi học chứ chưa có giấy khai sinh. Trên đường về, ai ai cũng mừng rỡ và huyên thuyên chuyện tṛ.

 

Từ đó, tôi sáng đi học chiều về chăn ḅ, kéo mước tưới trầu cau và phụ mẹ tôi đan vỏ xách. Khi tôi trở lại lớp học, đến cuối tháng  trong buổi lễ chào cờ và phát bảng danh dự, cô Khéo kêu tên tôi, tôi cứ tưởng ḿnh đang mơ v́ tôi học rất kém so với các bạn. Thầy Hiệu trưởng Ẩn đọc tên tôi và giải thích rằng tôi được ban khen về hạnh kiểm tốt và siêng học.  Tôi vui mừng khôn xiết, mừng hơn những ngày hạn hán gặp mưa dầm. Năm lên lớp Nhất, tôi không đủ điểm về luận văn để miễn thi tiểu học cho nên tôi phải đi thi để lấy bằng tiểu học. Đề thi về luận tôi vẫn c̣n ghi nhớ: “Miền Nam ta có hai mùa: mùa mưa và mùa nắng. Em thích mùa nào nhất và giải thích tại sao.” Tôi chọn mùa mưa với lư do gia đ́nh tôi được trồng trọt, làm ruộng, cây cối sum sê, khí hậu không có nóng và tôi khỏi phải kéo nước tưới trầu cau cho mẹ tôi. Chú Tám Lộc  nghe tôi kể về bài luận th́ chú bảo rằng cháu có nhiều hy vọng lên lớp Đệ Thất. Không ai hỏi tôi một câu về bài toán đố để tôi có dịp khoe tài khoa học của ḿnh v́ ai cũng biết tôi rất giỏi về toán.

 

        Thời gian trôi qua tôi vào lớp Đệ Thất, Đệ Lục của Tư thục Minh-Đức. Mỗi ngày có giờ Hán văn là tôi toát mồ hôi v́ giáo sư Nguyễn Ngọc An -nguyên là Tổng trưởng bộ chiêu hồi thời VNCH- , đánh sưng đít nếu không thuộc bài hay viết chữ Hán không đúng qui luật: từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, từ ngoài vào trong.

 

Năm lên Đệ Ngũ, tôi chuyển lên trường bán công Đặng Văn Trước v́ học phí rẻ hơn. Nơi đây tôi học văn chương với nhà văn Thẩm Thệ Hà. Thầy hay khen tôi có tư tưởng hay nhưng không biết cách diễn đạt cho nên tôi không hề có bài luận nào được 10/20 điểm. Tôi bắt đầu ghét Luận văn và tôi chỉ thích giờ cổ văn và kim văn. Tôi thuộc ḷng bài văn hay bài thơ như cơm bữa. Tôi luôn luôn dùng lư luận của khoa học mà phân tích văn chương, nó tuy lạ, không giống các bạn trong lớp nhưng không hiểu sao mà nhà văn Thẩm Thệ Hà lại thích đọc bài của tôi cho cả lớp nghe.

 

Năm 1963 trên đường từ trường về nhà, tôi thấy anh cán bộ Việt Cộng cầm loa rêu rao “Ngô đ́nh Diệm bị giết rồi!”Sau đó không bao lâu, nhiều nữ cán bộ đến nhà nhỏ to với mẹ tôi. Từ đó mẹ tôi không cho tôi ra đồng nữa, chỉ làm việc lẩn quẩn bên mẹ.

 

Một buổi sáng đẹp trời, tôi hao hức để đi bắn bi với bạn hàng xóm nhưng mẹ tôi bảo tôi đi ra ngoài chợ để gặp anh Bảy của tôi. Anh tôi đưa tôi đến tiệm may quần áo sắm quần Tây và áo sơ mi . Tôi ṭ ṃ hỏi anh th́ anh bảo rằng mẹ quyết định gởi hai anh em ḿnh đi SàiG̣n ở với anh Năm. "Đi SàiG̣n à ? Có ǵ vui ở dưới đâu, em thích ở nhà với bạn hàng xóm". Anh tôi chẳng buồn đến câu kêu nài của tôi. Sau khi thợ may đo ni xong, anh tôi dẫn tôi lên nhà bà Út (em của ông nội tôi). Chú Tám Lộc nói với tôi rằng đây là cơ hội cho cháu làm thầy giáo. Tôi bán tín bán nghi nhưng không dám hỏi và chỉ cúi đầu im lặng.

 

Hai tuần trôi qua, tôi len lén thỏ thẻ với mẹ về việc đi SàiG̣n nhưng mẹ tôi chỉ ứa nước mắt mà không nói ǵ cả. Việc ǵ đến rồi sẽ đến. Hôm đó tôi theo mẹ đi ra chợ bán gà và đó cũng là lần sau cùng tôi sống bên mẹ tôi hàng ngày. Sau buổi chợ sớm, ba tôi đưa hai anh em tôi đi SàiG̣n để sống với anh Năm của chúng tôi. Tôi ở nhà đôi ba ngày rồi theo chị Thu Ba (sau này là vợ của anh Năm tôi) đến trường trung học Nguyễn Bá Ṭng để thi vào lớp Đệ Tứ.

 

Lần đầu tiên tôi thấy ngôi trường dài đồ sộ và ông cha trong bộ y phục màu đen. Tôi sợ quá ôm lấy chị Thu Ba như nam châm thu sắt. Chị Thu Ba giảng nghĩa cho tôi đó là linh mục Đỗ đ́nh Tiệm, ông hiệu trưởng của trường này.Tôi khoanh tay và gật đầu chào ông hiệu trưởng nhưng cái lưỡi của tôi như con sáo mới vừa học nói “Con ki…ính cha..ào thầy Hiệu trưởng.”  Cha Tiệm mỉm cười rất khoan hậu và đưa hai chị em tôi vào pḥng khách. Tôi lại thấy một ông khác cũng mặc y phục dài đen, tôi chưa kịp mở mồm th́ chị Thu Ba nói rằng “Em à! Đây là cha Hà, giám học của trường.” Tôi tự hỏi “Giám học là ai?” Ở nhà quê tôi tôi chưa hề nghe qua, chỉ biết có ông Giám thị cầm cây củ mây để đánh đít chúng tôi mà thôi. Tôi không biết chị Thu Ba nói ǵ với cha Hà mà Cha bảo tôi “Con đừng sợ, chậm răi mà làm.”  

 

Trước mặt tôi là mảnh giấy trắng với cây viết ch́. Tôi bắt đầu viết lư do tôi muốn đi học. Tôi không nhớ tôi trả lời bao nhiêu lần v́ tôi muốn làm thầy giáo, để bà con trong xóm biết đọc và đi chợ. Khi qua bài toán, tôi làm rất nhanh v́ những bài này tôi đă làm qua biết bao lần trong bộ sách anh Năm gởi về quê cho tôi. Khi c̣n ở nhà quê, ba tôi đóng tấm bảng đen treo trong nhà và tôi dùng phấn viết bài toán rồi giải bài trên bảng như giáo sư Thuần dạy toán cho chúng tôi. Tôi nhớ rất rơ: mấy tuần lễ đầu tôi không tài nào viết cho ngay hàng. Tôi h́nh dung cách viết của các giáo sư rồi bắt chước nhưng sao nó khó khăn quá. Tôi kêu nài với mẹ th́ chỉ nghe câu “Có công mài sắt, có ngày nên kim.” Tôi đâu có mài sắt, tôi chỉ viết phấn lên bảng mà thôi. Dần dà tôi viết rất thẳng hàng, tôi không hiểu phép nhiệm mầu từ đâu mà đến. Tôi ơi ới kêu mẹ vô xem, mẹ xoa đầu tôi và nói “Má biết, con của má sẽ viết được ngay hàng!”

 

        Tôi vào lớp Đệ Tứ 4 của trường Nguyễn Bá Ṭng chậm hơn các bạn một tháng. Tôi thích nhất là giờ Pháp văn của giáo sư Trần Thừa Dụ, người mà tôi hằng ao ước được làm học tṛ của ông ta. Anh Năm có gởi về nhà quê cho tôi quyển sách “Văn phạm Pháp văn” của Trần Thừa Dụ và cuốn L’art De Conjuguer của Le Bescherelle do nhà sách Hatier bên Pháp ấn hành.Tôi nằm ḷng tất cả qui tắc trong sách của giáo sư Dụ và cách chia động từ.

 

        Khi theo học với thầy Dụ, thầy hay gọi tôi là Gramarcien chứ không gọi tên tôi. Trong những giờ học h́nh học,  tôi hay phát biểu và hay hỏi những câu mà cha Cử  không trả lời được.  Những bài toán mà cha Cử  cho trong lớp tôi đă làm ở nhà. Anh  Bảy  bảo tôi phải giải hết tất cả bài toán trong sách, không thể bỏ sót một bài. Nếu bị bắt được sự thiếu sót th́ không cho về quê gặp má tôi. Tôi thương mẹ lắm cho nên tôi làm đi làm lại nát nhừ cuốn sách toán. Do đó, khi cha Cử vừa viết đầu đề, tôi lẻo mép đọc luôn câu hỏi của bài toán. Tháng nào tôi cũng lănh bảng danh dự hạng nhất và cất rất kỹ để đem về quê khoe mẹ. Sau vài tháng ở trường Nguyễn Bá Ṭng, anh Năm bị cha Cử kêu vào mắng vốn về tội lẻo mép và câu hỏi hơi cố chấp. Cha Cử sau này là người thân tôi nhất khi tôi tốt nghiệp Đại học Sư phạm

 

        Anh Năm dạy tôi về sự kính trọng thầy giáo “Kính thầy mới được làm thầy, em đừng bắt bí giáo sư nữa”.  Anh Năm sao hiểu rơ  tâm lư quá, “Kính thầy mới được làm thầy” cho nên tôi cũng không làm khó dễ giáo sư Toán nữa. Nơi đây tôi gặp người bạn cùng xóm tên là Hùng. Anh ta là Bắc kỳ đặc cho nên tôi cũng không dám làm thân. Anh Năm nói rằng người Bắc cũng tốt như người dưới quê ḿnh vậy cho nên tôi mới dám gần gũi với Hùng. Hai chúng tôi học tập thể, làm hết những bài toán đại số của giáo sư Nguyễn Tá trước khi đến trường. Dần dà hai đứa chúng tôi là kỳ phùng địch thủ về Toán và Pháp văn trong lớp. Thời gian trôi qua những cây phượng vĩ bắt đầu đươm bông và đỏ thắm, chúng tôi từ giă nhà trường để về luyện tập cho kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp.

 

Sau kỳ thi Hùng và tôi vẫn la cà với nhau từ chợ Nguyễn Tri Phương đến khu cư xá sĩ quan quân đội (bố Hùng là Trung Úy). Hùng dẫn tôi vào ḷng chợ, tôi thấy nhiều sập bán đủ thứ, lung tung. Tôi cố nhớ để về quê kể cho mẹ nghe nhưng không tài nào nhớ hết.  Ngày đăng kết quả kỳ thi, Hùng chở tôi trên chiếc xe đạp đến trường Hùng Vương. Hai đứa tôi chen vào để ḍ tên. Hùng la lên “Phát ơi! Mày t́m được tên mày chưa, tao đỗ rồi!” Hùng họ Đinh nên tên nằm ở phía trên, c̣n tôi họ Trần cho nên nằm ở trang khác và gần cuối cùng. Hai đứa tiếp tục ḍ từng hàng và cuối cùng tôi thấy tên ḿnh trên bảng. Hai đứa tôi mừng rỡ và quay về nhà. Anh Bảy nghe tin hai chúng tôi đều đậu th́ mừng lắm nhưng anh ấy vẫn đạp xe đi xem.

 

        Hai hôm sau  Hùng và  tôi về quê thăm gia đ́nh tôi. Khi ra đồng Hùng rất vui thú và ṭ ṃ bắt cá, đùa giỡn với nước trong ruộng lúa. Tôi luôn luôn nhớ thân h́nh của Hùng đưa qua đưa lại khi đi trên bờ ruộng. Hùng ở thành phố, chưa bao giờ làm ruộng rẫy, do đó chưa quen đi trên con đê ruộng, trơn trợt, nhỏ hẹp và đầy cỏ. Ngày vui qua mau, hai chúng tôi trở lại SàiG̣n mang theo nhiều thổ sản để biếu mợ (mẹ của Hùng).

 

Hè đă qua, Hùng và tôi trở lại Nguyễn Bá Ṭng. Sau một tháng ở Nguyễn Bá Ṭng, tôi được giấy vào lớp Đệ Tam B2 của trường công lập Mạc Đỉnh Chi ở Phú Lâm. Hai đứa tôi vẫn khắn khít bên nhau, tranh tài giải toán. Ba tôi có đóng cho hai anh em tôi tấm bảng đen và treo ở nhà anh Năm, cho nên ban ngày chúng tôi ở nhà anh Năm, cuối tuần th́ tôi được phép ngủ lại ở nhà Hùng. Năm chúng tôi lên lớp Đệ Nhị, chúng tôi học rất chăm chỉ v́ thi rớt Tú Tài 1 th́ chỉ có chờ ngày đi lính và không lên được lớp 12.

 

        Chúng tôi học chung, hỏi bài cho nhau và cuối cùng cả hai chúng tôi đều đậu Tú Tài 1.   H́nh như đó là năm ba của Hùng - mà tôi gọi là bố- mở tiệm ăn ở 114 đường Gia Long, gần chợ Bến Thành. Bố mợ Hùng xem tôi như là con ruột. Bố bị giải ngũ cho nên phải dọn ra khỏi căn nhà lớn dành cho sĩ quan. Bố mợ mua một căn nhà nhỏ hẹp trong cư xá. Sáu anh em chúng tôi (Hùng có 4 đứa em trai) ngủ trên một cái phản. Những đêm mưa dột, chúng tôi đều thức giấc để tát nước ra khỏi nhà. Cuối tuần tôi theo Hùng lên tiệm ăn vào buổi trưa để đi bỏ cơm tháng, xong việc chúng tôi về nhà và học chung với nhau. Chúng tôi hỏi nhau những bài thơ, tiểu sử tác giả trên đường đi bỏ cơm cho khách. Hùng ghét thơ, nhất là các bài hát ả đào. Tôi th́ ngược lại nhớ nó rất dễ, nó tương tự các câu ḥ cấy lúa ở quê tôi.

 

        Cuối hè hai chúng tôi đều thi đậu Tú Tài 1, bà con trong cư xá tấm tắc khen bố mợ có hai đứa con học hành rất giỏi, đỗ Tú Tài ban B mà c̣n đỗ B́nh thứ nữa. Năm chúng tôi lên Đệ Nhất, tôi hầu như  thường trực ở nhà của Hùng. Anh Năm đă vào quân ngũ c̣n anh Bảy  th́ học Đại học Khoa học, anh Ba và anh Sáu c̣n ở nhà quê chăm lo ruộng vườn với ba mẹ.

 

Tết Mậu Thân năm 1968, tôi về quê ăn Tết với mẹ và bị kẹt ở quê nhà v́ Việt Cộng tấn công Sài g̣n. Các phương tiện di chuyển từ Trảng Bàng đến Sài g̣n đều bế tắc. Ba mẹ tôi buộc tôi phải rời nhà quê ra chợ Trảng Bàng ở nhà chú Tám Lộc để chờ ngày về lại Sài g̣n. Tôi rất nôn nóng về Sài g̣n để học thi với Hùng nhưng đành bó tay chịu trận.

 

Hai tuần lễ trôi qua tôi trở lại Sài g̣n, anh Bảy dẫn tôi ra ty cảnh sát để làm giấy khai báo sự vắng mặt của tôi trong lúc bị VC tấn công. Cả khu nhà đường Nguyễn Kim bị cháy rụi, tôi và Hùng nôn nóng đi t́m tin tức của Trần văn Đức và cuối cùng bạn tôi may mắn thoát chết. Thấm thóat năm tháng trôi qua Hùng và tôi miệt mài học tập. Chúng tôi học ngoài hàng hiên của cư xá dưới ánh đèn dầu v́ nhà Hùng rất eo hẹp. Mỗi lần gió lướt qua, hai đứa tôi cầu nguyện cây đèn thần đừng bị tắt. Hai chúng tôi rất tự tin nơi sự chăm chỉ và nhất quyết sẽ làm rạng danh cho bố mợ và ba má tôi.

 

        Một Chủ Nhật tôi và Hùng đi bỏ cơm tháng cho khách, khi chúng tôi đang ăn cơm trưa với gia đ́nh Hùng th́ anh Bảy  đạp xe lên tiệm ăn với nét mặt thảm sầu. Mợ vội hỏi: “Anh Bảy có chuyện ǵ mà buồn thế ? Hăy vào đây dùng cơm với các em”.

 

Hai ḍng lệ tuôn tràn trên mặt anh tôi, anh tôi ôm tôi vào ḷng và nói “Em ơi! Má đă mất rồi!”. Tôi chết đứng giữa trời, c̣n Hùng th́ gào lên “Trời ơi ! Má mất thật sao? Sao anh biết?” Cả nhà Hùng như gặp tai nạn, thương cho thân phận mồ côi của tôi. Tôi và Hùng đạp xe về lại nhà anh Năm. Tôi ủ rũ và nức nở. Anh Bảy th́ gào lên như con hổ bị tên. Anh tôi kể lể: “Má ơi! má bán từng miếng trầu, miếng cau cho con ăn học. Chưa được báo hiếu th́ má không c̣n…” Hùng luôn luôn bên cạnh và nắm lấy tay tôi.

 

Tối hôm ấy bố mợ kêu Hùng và tôi về cư xá. Mợ vỗ về an ủi trong khi bố cố gắng khích lệ tôi đừng thối chí mà thi rớt v́ ngày thi chỉ c̣n khoảng 50 ngày. Hùng và tôi không đi học hơn cả một tuần.  Hai đứa bên nhau, đứa th́ khóc lóc, đứa th́ vuốt ve an ủi.  Một hôm tôi nói với Hùng: “Chúng ta phải thi đậu, đó là cách báo hiếu cho người mẹ tảo tần, dăi nắng dầm sương, che chở và bảo bọc con ḿnh.”

 

Tôi không thể nào quên được h́nh ảnh má tôi ngồi trên chiếc xe đ̣ ở ngă tư Bảy Hiền để về Trảng Bàng sau chuyến thăm ba anh em tôi. Sáng hôm ấy Hùng và tôi đưa má tôi lên xe. Hai đứa tôi đứng đó và nh́n theo cái đuôi của xe đ̣ cho đến khi mất dạng rồi mới trở về nhà. Đó là lần cuối cùng tôi thấy mặt má tôi.

 

Trong lớp 12B2  của Mạc Đỉnh Chi,  ai cũng chia sẻ nỗi mất mát của tôi và cổ động tôi trở lại nề nếp. Thầy dạy toán, rất hănh diện về năng khiếu toán của tôi và hy vọng đem lại thành quả vẻ vang cho trường, cũng chịu sự buồn lây v́ không biết tôi có vượt qua nỗi khổ đau hay không. Không một ai tin rằng tôi sẽ thi đậu v́ biến cố xảy ra rất gần ngày thi Tú Tài 2.

 

Dưới sự d́u dắt của hai anh tôi, sự chăm sóc và an ủi của bố mợ, Hùng và tôi bắt đầu tập trung vào bài vở và cương quyết lập thành tích vẻ vang. Tháng Bảy đến,  Hùng và tôi chuẩn bị rất cẩn thận để đi thi. Hai hôm trước ngày thi tôi cảm thấy buồn vô hạn v́ thương nhớ mẹ. Ngày thi đă đến, anh Bảy dẫn tôi đi ăn sáng và đưa tôi đến trường thi. Anh Bảy ngồi ngoài cổng và chờ đợi. Tôi làm bài xong trước giờ ấn định nhưng anh tôi dặn Hùng và tôi phải ḍ lại bài cho kỹ, đừng nộp bài ra sớm. Tôi ra cửa đúng giờ ấn định và đi ăn trưa với anh tôi. Buổi chiều cũng vậy tôi chăm chú làm bài, quên cả anh Bảy đang thấp thỏm đợi chờ. Mỗi lần thấy tôi, anh Bảy luôn luôn khích lệ và khen thưởng. Chiều về Hùng và tôi trao đổi kết quả cho nhau trong khoảnh khắc rồi lại ôn bài vở cho ngày hôm sau.

 

Ngày thi thứ nh́ là môn chính, Toán buổi sáng, Lư Hóa buổi chiều. Hùng và tôi đều làm rất tốt. Ngày thứ ba là những môn phụ: Vạn vật và Sinh ngữ 2. Sau những ngày vất vả tôi và Hùng tiếp tục đi bỏ cơm tháng và chờ kết quả. Mỗi ngày chúng tôi đến trường Petrus Kư để lén nghe ban giám khảo đọc tên và ráp phách. Chúng tôi đă biết được kết quả qua những lỗ tai đặt vào vách tường nhưng anh Bảy bảo phải chờ kết quả chính thức.

 

Tôi hơi thất vọng khi nghe tên ḿnh chỉ đỗ B́nh thứ. Kết quả cuộc thi đă thông báo. Hùng và  tôi đều đỗ Tú Tài 2. Bố mợ làm tiệc ăn mừng. Hai anh tôi th́ vui mừng khôn xiết, nhắn tin về nhà quê cho ba tôi và hai anh. Sau một tuần vui chơi, tôi và Hùng bàn kế họach lên Đại học.  Tôi thi vào khóa 7 trường Sư phạm Sài g̣n để làm thầy giáo, c̣n Hùng th́ đi ban kinh tế ở trường Đại học Vạn Hạnh. Tôi được tuyển vào Sư phạm.

 

Trong khi học năm thứ nhất ở Sư phạm, tôi ghi tên Dự bị Văn khoa. Cuối năm tôi đậu dự bị và trúng tuyển vào ban Toán cho giáo sư Đệ Nhất cấp cấp tốc. Các thầy cô ở trường Sư phạm khuyên tôi thi vào khoá 11 Đại học Sư phạm. Tôi rất phân vân v́ chỉ có một năm nữa thôi tôi sẽ thành thầy giáo, c̣n vào Đại học Sư phạm th́ phải ba năm nữa. Vả lại tôi không có khiếu về văn chương. Cô giám thị Lê Thị Quan la rầy tôi v́ tôi không đi nộp đơn và cuối cùng thầy Minh (dạy Pháp văn) dắt tôi qua trường Đại học Sư phạm để nộp đơn. Tôi không ngờ tôi đậu vào ban Việt Hán Đại học Sư phạm. Gia đ́nh tôi ai cũng hớn hở vui mừng. Bố mợ và Hùng cũng vui khôn xiết v́ tôi c̣n ở lại Sài g̣n ba năm nữa.

 

Tôi bắt đầu vào học lớp huấn luyện cho giáo sư Toán cấp tốc. Học được ba tháng hè, giáo sư Lư Công Cẩn gọi tôi vào văn pḥng và ra lịnh cho tôi qua bên Việt-Hán. Tôi van xin được ở lại nhưng bị khước từ.

 

        Năm đầu tiên của Đại học Sư phạm, tôi tham gia biểu t́nh chống tham nhũng và yêu cầu bộ Giáo dục tách rời chính trị ra khỏi học đường. Lúc bấy giờ ông Nguyền cao Kỳ đă sáng lập chương tŕnh huấn luyện quân sự học đường và tham nhũng trong tiền viện trợ của Mỹ.  Tôi và 71 sinh viên bị bắt giam ở Quận Nhất. Chúng tôi tuyệt thực và đ̣i hỏi công lư.  Sau một tuần bị giam  anh Năm lănh tôi ra. Hành động này gây khó khăn về sau khi tôi tốt nghiệp.

 

        Ba năm ở Đại học Sư phạm tôi được sự khuyến khích và giúp đỡ của thầy cô như giáo sư Lê Hữu Mục và giáo sư Khưu Sĩ Huệ. Tôi được dạy tư cho trường Trung Học Thánh Gioan ở đường Nguyễn Trăi, trung học Lĩnh Nam ở đường Trần Hoàng Quân trong vùng Chợ Lớn và t́nh nguyện dạy cho trường nữ sinh mù ở đường Minh Mạng, ngă sáu Chợ lớn. Ban đêm tôi đi dạy toán luyện thi Tú Tài miễn phí cho những học sinh nghèo và hiếu học Trung Học Nghĩa Việt ở Trung tâm Nghĩa sinh, đường Hùng Vương.

 

        Khoảng năm 1969-1970, quân đội Cao Miên tiêu diệt ngườ́ Việt định cư trên lănh thổ của họ. Dân Việt ĺa bỏ xứ chùa tháp để hồi cư. Hàng ngàn dân ta từ già cho đến sơ sinh, tay bồng tay bế dắt nhau chạy loạn, vượt qua biên giới về tỉnh Tây Ninh. Nh́n cảnh màn trời chiếu đất của dân ta trên quê nhà, sinh viên Đại học Sư phạm SàiG̣n, đoàn Nghĩa sinh Việt Nam và học sinh, giáo chức tỉnh Tây Ninh thành lập ủy ban cứu trợ Việt kiều.

 

       

 

 

          Trên đường từ  Sài g̣n lên Tây Ninh, tôi và anh em đoàn Nghĩa sinh dừng chân nơi Tha la xóm đạo, một địa danh lẫy lừng trong thời kỳ kháng Pháp. Tha La xưa thuộc làng An ḥa, quận Trảng Bàng, cũng có tên Phú Đức (là quê hương của tôi), sau thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, hiện nay thuộc tỉnh Tây Ninh. Tha La nằm ven quốc lộ số 1, cách thị trấn Trảng bàng khoảng 6 km về phía Tây. Tha La nguyên thủy là tên của người Khmer  Schla, thuộc dất Chân Lạp. Vào thời Minh Mạng (1840), linh mục Cosimo đưa một số con chiên lánh nạn đến Tha la để khai thác và trốn tránh triều đ́nh tiêu diệt Thiên Chúa giáo. Sau khi Pháp xâm chiếm miền Nam th́ Thiên chúa giáo được nâng đỡ và khuyến khích.  Tha La trở nên một địa điểm có qui củ, nhà thờ được dưng lên chánh thức. Vào khoảng 1945, thanh niên xứ đạo Tha La đă tích cực tham gia phong trào chống Pháp và Vũ Anh Khanh đă viết lên cảm nghĩ của ông khi về lại Tha la.

 

Dưới bóng mát của hai lũy tầm vong dẫn đường vào nhà thờ, không ai không ngậm ngùi với phong cảnh nên thơ, tŕu mến và oai nghiêm. Trước khi rời Trảng Bàng, anh em Nghĩa sinh chúng tôi cũng không quên thưởng thức hương vị bánh canh Trảng Bàng và bánh tráng phơi sương. Khi tới Phước Điền, Nghĩa sinh chúng tôi bắt tay ngay vào việc giáo huấn trẻ em và vệ sinh công cộng. Sinh viên Đại học Sư phạm SàiG̣n dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Vạn Thắng cùng giáo chức và học sinh Tây Ninh dựng lều và cung cấp thực phẩm, thuốc men cho đồng bào. Dưới ánh nắng của trưa hè nơi xứ được mệnh danh là “chó ăn đá, gà ăn muối”, mọi người đều mệt lả.  Anh em Nghĩa sinh chúng tôi cố đào giếng để lấy nước cho đồng bào nhưng công việc này rất gay go và cần nhiều nhẫn nại v́ Tây Ninh mực nước giếng rất sâu:

 

        Lấy chồng về miệt Tây Ninh,

        Xách nước giếng ba mươi sảy, thất kinh ông bà!

 

        Chúng tôi cũng cố xoa dịu vết thương của đồng bào tị nạn và tạo cho đồng bào không khí, tập quán dân miền nam, chúng tôi dạy trẻ em ca những bài lư con sáo. Bài hát đó càng tăng thêm nỗi bi thương của dân ḿnh:

 

        Ai xui nó giết dân ta,

        Để... cho, để .... cho cô bác, ơi người ơi! bỏ... nhà , bỏ... nhà ơi                  người ơi, mà sang đây!

 

Ban đêm chúng tôi thay phiên nhau về nhà anh Tiên và chị Sương để nghỉ ngơi. Anh giáo viên Tiên với cuộc sống thanh đạm nhưng ṿng tay của gia đ́nh anh rất lớn, ôm ấp chúng tôi trong những ngày cứu trợ và làm cho chúng tôi thêm hăng say trong công việc. Trước khi về SàiG̣n tiếp tục con đường học vấn, anh em chúng tôi đi thăm ṭa thánh Tây Ninh, địa phận của giáo phái Cao Đài. Nh́n vào kiến trúc từ ngoài bách hoa viên cho đến trong cung điện của Ṭa Thánh, không ai không bái phục.

 

 Năm thứ hai tôi bị đánh rớt khóa 1, phải đi học quân sự ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Tôi phải ôn bài để thi khóa hai.  Năm thứ ba  tôi cứ ngờ rằng tôi sẽ bị đánh rớt nhưng không hiểu tại sao tôi cũng ra trường.

 

Ngày đi nhận nhiệm sở là ngày hồi hợp nhất cho tân giáo sư nhưng tôi không hề bận tâm v́ tôi t́nh nguyện và quyết chọn trường trung học Đất Đỏ, nằm trong vùng hẻo lánh tỉnh Phước Tuy, nơi băi chiến trường vừa kết thúc và trường học bị đổ tan.  Tôi lớn lên ở nhà quê, đă từng thấy băi chiến trường, từng thấy nhiều trẻ em bị thất học, cho nên Đất Đỏ là nơi tôi muốn dạy, dạy cho những trẻ em khốn khó như lúc tôi c̣n bé.

 

Trong những năm ở Đất Đỏ, tôi rất nghiêm khắc với học sinh, nhất là nữ sinh, tôi cương quyết và đề pḥng “Ṿng tay học tṛ" của Nguyễn Thị Hoàng, “Cánh hoa chùm gửi" của Quỳnh Giao, "Ngựa chứng trong sân trường" của Duyên Anh, hoặc chủ thuyết "lấy thầy mới được làm cô". Do đó, tôi tạo khoảng cách với các em nữ sinh từ lớp 9 cho đến lớp 12 bằng cách áp dụng phương pháp “khổ hạnh” của chủ thuyết giáo dục thuộc trường phái Thiền Tông.

 

Các em Đất Đỏ là máu huyết của tôi, là niềm an ủi của đời tôi làm thầy giáo. Tôi không muốn các em Đất Đỏ phải sống cuộc sống hẩm hiu như thời thơ ấu của tôi. Tôi t́m mọi cách, ép buộc các em phải học, phải đậu Tú Tài 2 và tốt nghiệp đại học như tôi. Một nhóm em Đất Đỏ tạm trú ở nhà tôi để học luyện thi Tú Tài.

 

        Năm 1975, miền Nam sụp đổ. Tôi cũng như các giáo chức ở Phước Tuy phải đi cải huấn bẩy ngày (Cộng sản gọi là "cải tạo". Tôi muốn nêu ra ở đây là chữ “cải huấn” dùng cho con người, c̣n  chữ  “cải tạo” dùng cho đồ vô tri vô giác).  Trong lúc tôi c̣n ở Đất Đỏ, trên đường từ trường về nhà trọ,  em bé du kích  bắt tôi đứng giữa chợ Đất Đỏ và hăm dọa bắn bể đầu tôi v́ tôi  thuộc thành phần cải tạo, căi lịnh chính quyền đi ra đường sau 5 giờ chiều. Mỗi lần em ấy đưa cây AK-47 lên mặt tôi là mỗi lần tôi té tiểu trong quần. Dân làng xin hắn tha tôi nhưng hắn cương quyết không buông. Sau đó có người báo cho ông Tư Thanh, trưởng ban tuyên huấn Bà Rịa Long Khánh, cậu ruột của Nguyễn Ngọc Phương. Ông Tư Thanh từ Bà rịa chạy Honda xuống Đất Đỏ và ra lịnh hắn cho tôi đi về nhà trọ.

 

        Sau lần thoát chết đó, tôi như con chim bị tên, lúc nào cũng sợ sệt và lo âu. Tôi không hề thù hằn hay oán hận em du kích, tôi chỉ tội nghiệp cho em ấy, một đứa bé vô giáo dục, không có cơ hội được tôi dạy dỗ.  Tôi tâm sự với Phương, cùng dạy chung trước 1975, và sau đó tôi bị đưa đi Rừng Lá.

 

        Ngày cuối cùng ở Đất Đỏ thầy tṛ đều đỏ mắt. Tôi bước vào lớp như người đă quá chén, đầu óc xoay cuồng. Tôi gượng tỉnh và nói lời giă từ, khuyên các em tiếp tục con đường học vấn và làm tốt mọi việc như khi tôi c̣n ở nơi này. Trong lúc tôi c̣n loay hoay dẫn giải th́ cuối lớp tiếng nức nở ̣a lên rồi nó lan tràn như vết dầu loang, cả lớp đều sụt sùi. Tôi không thể tự chủ được nữa và cũng ứa lệ với các em.

 

        Ngày tôi về Đất Đỏ với bao niềm vui, với tràn đầy hy vọng th́ ngày tôi ra đi hoàn toàn trái ngược. Có lẽ định mệnh đă sắp xếp cho cuộc hành tŕnh làm thầy giáo của tôi phải trải qua thử thách như giai thoại ni cô biến thành chim b́m bịp. Ni cô v́ bội ước mà thành chim, c̣n tôi nào có lỗi ước ǵ với các em Đất Đỏ mà lại bị lưu đày?

 

Chiều hôm ấy tôi giă từ hai phụ huynh nơi nhà trọ rồi đón xe về lại Sài g̣n. Ngồi trong căn nhà nhiều kỷ niệm, thân phụ tôi cũng buồn lây và hỏi thăm những em học sinh những năm về trước. Tôi cũng chẳng biết các em ấy đi đâu và không có câu trả lời cho thân phụ. Nh́n xung quanh, tôi có cảm giác như các em vẫn th́ thầm đọc sách, học phát âm tiếng Bạch thoại và hỏi tôi giải những bài toán như xưa. Bỗng nhiên tôi cảm thấy căn nhà lạnh tanh như một nơi  hoang vắng mà lâu ngày không ai lui tới. Tôi nghe tiếng thở dài của ba tôi v́ ba tôi hiểu được tâm trạng của tôi với học sinh Đất Đỏ. Tôi bèn đứng lên cố gượng vui để ba tôi an ḷng và nói với ba tôi những hy vọng một Đất Đỏ thứ nh́ nơi Rừng Lá.

 

Rừng Lá là nơi rừng thiêng nước độc và là chỗ định cư của đồng bào di tản từ B́nh long. Nơi đây không có đầy đủ nước uống hay đèn điện như ở Đất Đỏ. Cuối tuần Hiệu trưởng Học cùng thày giáo đi tắm suối và giặt giũ.  Theo lời anh Nguyễn văn Học, anh là giáo viên bị đưa vào Nam. Anh Học rất nghèo và thương vợ con. Anh ấy thông cảm cho sự mất mát của chúng tôi. Những ngày Tết chúng tôi mời anh Học về SàiG̣n để anh quên đi nỗi cô đơn.

 

Một hôm anh Ngọc quá nhớ nhà, anh em chúng tôi góp tiền mua cho anh vé xe lửa để lén về quê thăm gia đ́nh. Không may chuyện bị lộ và anh Học bị khiển trách khi anh trở lại. Ở Rừng Lá anh chị em giáo chức đều thuộc thành phần lư lịch xấu, đối với chính quyền. Trường chỉ có 4 lớp (lớp 6-9) nhưng có nhiều giáo sư có cử nhân và cao học (3 giáo sư văn chương, 1 giáo sư  Sử địa, 1 giáo sư Lư Hóa.)  Đa số ba của các em học sinh ở trong trại cải tạo.  Những buổi chiều tôi ngồi một ḿnh trên bực thềm của trường, nh́n những hàng mây bay lơ lửng ôm quanh đỉnh núi Mây tào, tôi buồn thối ruột và bắt đầu suy nghĩ lung tung: tôi nhớ gia đ́nh, nhớ mẹ, nhớ bạn bè, nhớ người yêu và ứa lệ khi nh́n về Đất Đỏ qua dăy núi Mây tào. Sau một năm, dân chúng bắt đầu biết tôi và giúp đỡ th́ tôi bị đổi đi Nhơn Trạch ở Cát lái vào hè năm 1976.

 

Trước khi về Nhơn Trạch, tôi lập gia đ́nh. Các em học sinh người Hoa thuộc trường trung học Thánh Gioan trợ giúp tôi về tài chính và phương tiện duy chuyển trong ngày tiểu đăng khoa. Nhà tôi ở Phú Lâm, tôi thức giấc 4 giờ sáng, chia tay với vợ rồi đạp xe từ Phú Lâm đến Nhơn Trạch để dạy học. Thường xuyên tôi chỉ về nhà cuối tuần; đôi lúc tôi cũng về nhà thăm vợ giữa tuần.Từ nhà tôi đến Nhơn Trạch phải qua phà Thủ Thiêm và phà Cát Lái. Nếu trễ giờ th́ phải đợi chuyến phà kế. Đứng trên phà Cát Lái, nh́n những căn nhà nhô nhúc bên sông, tôi cảm thấy buồn ray rứt. Tôi nhớ quê tôi có con sông Vàm Cỏ Đông nhưng bà con đều ở xa bờ sông; c̣n ở Long Xuyên nơi nhà bạn gái tôi th́ nhà chen chúc như bờ sông Cát Lái.

 

Tôi vẫn c̣n trầm tư th́ phà tấp bến và thiên hạ đua nhau xuống phà. Từ nơi đây phải đạp qua Phước Lư, một con dốc rất dài và cao rồi mới tới trường Nhơn Trạch. Theo qui chế mới, thầy cô phải tập trung ở trong trường và phải đi thăm viếng từng phụ huynh lớp chủ nhiệm. Có em ở xa lắc xa lơ, đạp xe hằng giờ mới tới nơi. Đôi khi tôi ngủ đêm ở nhà học tṛ, cùng phụ huynh bàn chuyện ruộng rẫy, cuốc đất trồng khoai.Tôi cũng ra ruộng, cấy lúa với phụ huynh, uống rượu đế, ca vọng cổ và quên đi sự đày ải của thể chế giáo dục mới. Những ngày giỗ ở nhà phụ huynh, tôi đều tham dự. Phụ huynh ở đây rất quí và thương tôi v́ tôi là hiện thân cho giai cấp nhà quê, cố gắng học tập để thành thầy giáo. Phụ huynh hay khuyên con bắt chước tôi mà cố học.

 

Ở Nhơn Trạch tôi dạy cả toán và văn chương v́ người bạn dạy toán, giáo sư Đường ở Biên ḥa, bị bịnh suyển cho nên thường xuyên vắng mặt. Ban đầu tôi từ chối dạy toán và bị Hiệu trưởng khiển trách. Hiệu trưởng  Nam là đảng viên từ Bắc vào, ông ta rất hiền và ḥa đồng với giáo chức miền Nam. Ông ta đưa ra nhiều lư lẽ bắt tôi dạy toán v́ có người dạy chung, anh ta là anh của cô bạn cùng ban Việt Hán với tôi, báo cáo với anh Nam là tôi từng mở lớp luyện thi Toán  miễn phí ở trung tâm Nghĩa sinh cho những học sinh nghèo trong lúc tôi học Đại học Sư phạm SàiG̣n.

 

Nhơn Trạch để lại cho tôi nhiều kỷ niệm; học sinh hiền hậu, dễ thương như  các em Đất Đỏ và có cơ hội quấn quít bên tôi nhiều hơn các em Đất Đỏ. Các em thông cảm cho sự lên voi xuống chó của tôi. Trong những ngày nghỉ, tôi thường đạp xe đưa vợ  về Cát Lái để gặp phụ huynh và các em.

 

Ngày tháng qua nhanh, năm học chấm dứt, tôi đi học tập chính trị như những đồng nghiệp. Trong buổi học tôi bị anh cán bộ kêu ra ngoài, tôi tưởng rằng tôi sẽ bị đi tù v́ lư lịch của gia d́nh. Vừa đi vừa thương cho vợ nếu chẳng may tôi bị đi tù hay giết chết. Vợ tôi c̣n quá trẻ mà chịu cảnh góa bụa hay sao? Tôi run run bước chân vào văn pḥng và hồi họp chờ phán quyết. Với gương mặt lạnh như đồng, anh ta nói rằng “Đồng chí được chỉ thị về trường Thống Nhất B ở Gia kiệm”. Tôi càng run lên v́  Hiệu Trưởng tên Sáu ở Gia Kiệm nổi danh rất độc tài. Tôi van nài anh ta cho tôi về trường Thống Nhất A ở Hố nai. Anh hỏi gặn tôi lư do. Tôi thong thả trả lời: “Tôi sẽ học hỏi nhiều kinh nghiệm nơi đồng chí  hiệu trưởng Thuần, người đă vang danh vô tư và hết ḷng cho giáo dục.” Anh ta cắn cây bút và kư tên vào giấy thuyên chuyển. Tôi vừa mừng vừa sợ.

 

 Khóa học chính trị đă xong, tôi về lại SàiG̣n, báo tin cho vợ biết. Từ đó hai vợ chồng tôi sống như thời chiến tranh, thỉnh thoảng tôi mới có dịp về nhà. Vợ tôi vừa đi làm vừa chăm sóc cha chồng.

 

Năm 1978 vợ tôi mang thai, nhạc phụ tôi chuẩn bị vượt biên. Vợ tôi chạy đôn chạy đáo và  xin được cho tôi một chân thợ điện trong công ty cấp nước nơi đường Lữ gia ở SàiG̣n. Tôi âm thầm từ bỏ nghề dạy học một cách đau thương để về gần vợ. Những ngày cắt vỏ xe hơi làm niềng cho xe đổ rác hay làm giép râu cho các ông lớn, tôi cứ tự hỏi sao ông Trời không công bằng. Trong sở vợ tôi, ai cũng biết tôi nguyên là giáo sư đệ nhị cấp cho nên họ t́m cách giúp đỡ tôi học những công việc mới. Anh Thuận hay bảo tôi:

 

Lao động là vinh quang.

Lang thang là chết đói.

Hay nói th́ ở tù.

Lù khù th́  vẫn sống.

 

        Tôi chăm chỉ lao động  để khỏi bị quấy rầy.Thỉnh thoảng tôi đi bắt điện cho những văn pḥng ở G̣ Vấp hay sở thú SàiG̣n.

 

Một hôm một nhóm học sinh Hố Nai bất ngờ thăm viếng tôi ở Phú Lâm. Các em ngủ trọ một đêm và yêu cầu tôi dắt các em đi sở thú. Sau khi đưa vợ đi làm và xin phép nghỉ nửa ngày, tôi đưa các em đi thăm sở thú. Thầy tṛ dạo quanh vườn bách thảo và tôi khuyên các em hăy quên tôi đi mà tiếp tục học  với thầy cô mới. Các em phẫn nộ rồi ̣a lên. Tôi cố an ủi và vỗ về v́ tôi không muốn rơi vào cảnh Đất Đỏ 4 năm trước. Tôi măi loay hoay với các em và quên đi trách nhiệm của người chồng: tôi không về ăn cơm trưa với vợ và để vợ tôi trông đứng, trông ngồi nơi bàn làm việc. Tôi rất hối hận về việc này nhưng tôi không hiểu được chính ḿnh. Tôi đứng trước ngă ba đường và rẽ sang phía học sinh để cho vợ tôi phải buồn trong lúc mang thai.

 

Năm 1979 khi con chúng tôi chào đời được hai tháng, tôi theo gia đ́nh vợ vượt biên theo diện bán chính thức dành cho người Hoa. Nhạc phụ và nhạc mẫu mua giấy người Hoa cho tôi để tôi được đi. Lần ra di đầu tiên, chiếc ghe chết máy trôi dạt 14 ngày từ Mỹ tho đến B́nh Tuy, tưởng chừng đă chết nhưng được Liên-Sô cứu và kéo về Vũng Tàu. Cuộc hành tŕnh thứ hai bị Hải quân Việt Nam kéo vô Côn đảo một tuần. Sau khi vơ vét hết những ǵ họ có thể làm, họ thả ra đi. Trải qua hai lần thập tử nhất sinh,  cuối cùng gia đ́nh tôi định cư ở Mỹ vào ngày 19 tháng 1 năm 1980.

 

Trong những năm đầu định cư ở Mỹ, vợ tôi là h́nh bóng của bà Tú Xương, quán xuyến mọi việc từ trong gia đ́nh cho đến ngoài xă hội. Những việc thông dịch đều do vợ tôi đảm trách. Sau một năm làm cho xưởng gỗ, gia đ́nh tôi dọn lên Richmond, thủ đô của tiểu bang Virginia, để tôi đi học lại. Trong những ngày mới ở Richmond, từ nhạc phụ, nhạc mẫu cho đến các cô cậu em vợ đều chung tay giúp gia đ́nh tôi phương tiện di chuyển. Hàng ngày cậu em chở tôi đi học.

 

Năm 1983, sau khi tôi tốt nghiệp Cán sự điện tử với hạng Summa Cum Laude (tối ưu),  không nơi nào chịu mướn v́ tôi không nói được tiếng Anh. Trường đại học cộng đồng  nơi tôi theo học mướn tôi dạy lớp thí nghiệm. Một năm sau (1984), công ty điện lực mướn tôi làm Cán sự cho nhà máy chạy bằng than. Ngoài giờ làm việc, họ trả tiền và chi phí cho tôi đi học kỹ sư. Đây là giai đọan khổ cực nhất của vợ tôi v́ tôi vừa làm, vừa học và không có thời gian với gia đ́nh. Ba năm sau (1987) tôi được tuyển dụng vào Trung tâm huấn luyện năng lượng của công ty.

 

                Cũng vào năm 1987, tôi nhận được hung thư của Hùng báo tin ba tôi đă qua đời trong nỗi nhớ thương con. Tôi nghỉ làm 3 ngày và ân hận đă bỏ cha già nơi chôn nhau cắt rún. Vợ tôi cũng rất buồn nhưng gượng gạo vui tươi để an ủi tôi. Tôi chợt nhớ lời Trung Tá Quốc: “Số tôi cô độc, tha phương cầu thực, may mắn trên đường công danh và không thấy mặt cha mẹ lúc qua đời.”

 

 Năm 1988 tôi được biệt phái qua Trung tâm huấn luyện của nhà máy phát điện chạy bằng nguyên tử. Những tháng năm tôi làm việc cho Trung tâm huấn luyện nhân viên điều hành nhà máy phát điện chạy bằng nguyên tử, tôi rất đau buồn khi nh́n thấy những xe chuyên chở học sinh. Tôi nhớ lại thời dĩ văng, những giờ giảng dạy dưới thời VNCH. Tôi luôn luôn u buồn và không sao chữa được. Tôi rất quạu quọ và nóng nảy. Một hôm tôi đi khám bác sĩ tâm lư, bà ta khuyên tôi đi học lại mà phải học về giáo dục. Trong sở tôi, họ ủng hộ và cổ vơ tôi đi học lại.  Họ trả tất cả chi phí, từ thông dịch giấy tờ cho đến học phí để tôi trở lại học đường.

 

Ngày đầu tiên trong lớp học, ai cũng giới thiệu trường lớp của ḿnh; tôi là người duy nhất “mất dạy. Giáo sư hỏi qua lư do ǵ mà anh kỹ sư lại chọn cao học giáo dục. Tôi tự hào và thao thao bất tuyệt nói qua về trường Đại học Sư phạm SàiG̣n và những tháng ngày tôi đi dạy học.

 

        Ngày nào tôi cũng ứa lệ khi tan trường. Sau hai khóa học tôi phải tạm dừng v́ công việc quá nhiều trong sở. Tôi chọn giờ đi làm về khác biệt với giờ xe chuyên chở học sinh để tôi không phải rơi lệ. Tuy nhiên sau hai khóa học, bạn cùng lớp và giáo sư đă giúp tôi vượt qua nỗi nhớ nhung trường cũ và cảm động trước chiếc xe buưt màu vàng đưa học sinh đi học.

 

Hầu hết đời tôi luôn gắn bó với ngành giáo dục. Hiện nay tôi không có trường lớp nhưng tôi luôn luôn chia sẻ kỹ thuật mới cho những huấn luyện viên thuộc Trung tâm huấn luyện chuyên viên cho nhà máy phát diện chạy bằng nguyên tử ở tiểu bang Virginia, USA để họ có phương tiện dạy dỗ tốt và hiệu quả hơn.

 

        Nếu tôi tái thế làm người,

Nguyện làm thầy giáo trọn đời kiếp sau

 

Virgina, ngày 22 tháng 6 năm 2009

Trần-Lâm Phát