Nhng n văn sĩ đu tiên

ca Vit Nam

Nguyn Chính Vin

 

 

                 
1- Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng (1772-1822).
Bà đă để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn c̣n nhiều điểm gây tranh căi; thậm chí có một vài ư kiến c̣n cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đă tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ: Hồ Xuân Hương thuộc ḍng dơi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một ḍng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - th́ ḍng họ này đă suy tàn. Nhưng theo một tài liệu mới được công bố (trên tạp chí Văn học số 10-1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trần Thanh Mai, th́ Hồ Xuân Hương có cùng quê quán, nhưng là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783), em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786). Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm th́ bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An .Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đă lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối t́nh duyên đó. Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến. Bà xuất thân trong một gia đ́nh phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đă giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xă hội. Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ nguyệt đ́nh"?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, mà phải xem lại xă hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xă hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương. Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng răi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ c̣n là người từng đi du lăm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước. Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hăn và ông Lê Xuân Giáo th́ nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, quan Tri phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển). Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ b́nh thường của thời phong kiến mà bà đă có một cuộc sống đầy sóng gió .Các tác phẩm của bà đă bị mất nhiều, đến nay c̣n lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng. Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đă công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sưHoàng Xuân Hăn đă dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhăn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xă hội, tại Paris vào năm 1984. Ngoài ra, Hồ xuân Hương c̣n viết bài "Bánh trôi nước" rất nổi tiếng. Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương kư  theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương. Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung t́nh yêu gia đ́nh, đất nước, nó không thể hiện rơ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của bà.

2- Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan ( 1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh; là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam Nguyễn Thị Hinh người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội Thân phụ là Nguyễn Lư (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783, đời vua Lê Hiển Tông. Bà là học tṛ của danh sĩ Phạm Quư Thích (1760-1825), và là vợ Lưu Nghị  ( 1804 -1847), người làng Nguyệt Áng huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông đỗ cnhân năm 1821 
(Minh Mệnh thứ 2), từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái B́nh), nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan.
Chồng bà làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ H́nh, nhưng mất sớm (43 tuổi). Dưới thời vua Minh Mạng  bà được vời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi. Khoảng một tháng sau khi chồng mất, bà lấy cớ sức yếu xin thôi việc, rồi dẫn bốn con  về lại Nghi Tàm và ở vậy cho đến hết đời.  Năm 1870, ở Nghi Tàm nổ ra cuộc đấu tranh chống lệ nộp chim sâm cầm, một đặc sản của vùng này. Theo Ngọc phả (ghi nhận công đức của những người có công với dân làng), th́ chính Bà Huyện Thanh Quan đă thảo đơn cho dân gửi lên vua, nhưng v́ phục tài đức của bà nên quan huyện Hoàn Long đă phớt lờ đi . Được biết năm 1848, bà mất ở tuổi 43. Mộ bà được đặt bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng sau này sóng gió đă làm sạt lở không c̣n tăm tích  Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật. Hiện gồm những bài sau : 1- Thăng Long thành hoài cổ  2- Qua chùa Trấn Bắc  3-  Qua Đèo Ngang  4 - Chiều hôm nhớ nhà 5- Nhớ nhà 6- Tức cảnh chiều thu 7- Cảnh đền Trấn Vơ 8- Cảnh Hương sơn  Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy th́ 4 bài đầu là hoàn toàn chính xác của bà bởi có sự thống nhất từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật  GS. Dương Quảng Hàm: Những bài thơ Nôm của bà phần nhiều là tả cảnh, tả t́nh, nhưng bài nào cũng hay và tỏ ra bà là một người có tính t́nh đoan chính, thanh tao, một người có học thức thường nghĩ ngợi đến nhà, đến nước. Lời văn rất trang nhă, điêu luyện  GS. Thanh Lăng: Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ GS. Phạm Thế Ngũ:  Nhiều nhà phê b́nh đă đưa ra thuyết Bà Huyện Thanh Quan mang nặng tấm ḷng thương tiếc nhà Lê, thuyết ấy không phải là vô căn cứ. Cái tâm trạng hoài Lê ấy, cũng là tâm trạng chung của nhiều nho sĩ Bắc Hà sau ngày thống nhất...Nhưng nói là nhớ tiếc cái chính trị của mấy ông vua thời Lê mạt th́ không đúng. Bà hướng về một quá khứ mà có lẽ bà cũng không tường tận lắm, và bà cũng chưa thọ hưởng được ân huệ ǵ; nhưng đó là quá khứ của tiền bối, của gia đ́nh...V́ thế thái độ hoài Lê của bà cũng như nhiều nho sĩ đồng thời không có tính cách chính trị, mà chỉ có tính cách tâm t́nh... Về mặt nghệ thuật: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối rất chỉnh, rất thần t́nh, ư hàm súc, lời trau chuốt, gọn, đẹp...Cho nên thơ bà rất được các nho gia xưa yêu chuộng, ngâm nga... Thơ luật đời Nguyễn , ở tác phẩm của hai nữ sĩ là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan, như vậy quả đă tiến đến cao độ mỹ diệu. Thơ Hồ Xuân Hương thiên về Nôm mà bóng bẩy, duyên dáng. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thiên về Hán mà thanh thoát, nhẹ nhàng. Hồ Xuân Hương đại biểu cho cái tinh thần trào phúng b́nh dân vươn lên thể hiện một h́nh thức bác học. Bà Huyện Thanh Quan đại biểu cho cái tinh thần tao nhă nho sĩ kết tinh lại, cùng với tinh túy của Đường thi... GS. Nguyễn Lộc: Thơ bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn là vào lúc trời chiều, gợi lên cái cảm giác vắng lặng và buồn bă. Cảnh bà miêu tả trong những bài thơ giống như những bức tranh thủy mặc, chấm phá...Hơn nữa, nói cho đúng th́ cảnh trong thơ bà thực tế cũng không phải là cảnh, mà là t́nh. T́nh cảm của bà thường là sự nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son đă một đi không trở lại. Do vậy, người ta gọi bà là nhà thơ hoài cổ. Thơ bà c̣n được chú ư v́ một lẽ nữa, đó là nghệ thuật hết sức điêu luyện. Ở đó, niêm luật đều luật đều chặt chẽ mà không gây cảm giác g̣ bó, xếp đặt. Câu thơ của bà trang nhă, từ ngữ chải chuốt và chọn lọc công phu...  Giai thoại : Kẻo mai nữa già :Lúc ông huyện Thanh Quan (Lưu Nghi) đi vắng, có một cô gái tên là Nguyễn Thị Đào đă đệ đơn lên tŕnh bày rằng chồng cô đă ruồng bỏ cô để xin được ly dị, lấy chồng khác. V́ thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan đă thay chồng phê đơn bằng mấy câu thơ:  Phó cho con Nguyễn Thị Đào /Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?/ Chữ rằng: Xuân bất tái lai /Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già! Hay chuyện, chồng cô Đào kiện quan trên. Quan trên ăn của đút, giáng chức ông huyện Thanh Quan. Làm trâu : Có một ông đỗ hương cống tới xin mổ trâu để giỗ bố. Lúc bấy giờ, triều đ́nh đă ban lệnh hạn chế mổ trâu, để phát triển việc canh nông. Cảm động trước hiếu hạnh của ông này mà chồng th́ đi vắng, Bà Huyện Thanh Quan đă cầm bút phê vào đơn câu thơ: Người ta th́ chẳng được đâu /"Ừ " th́ ông Cống làm trâu th́ làm. Biết bà huyện dùng chữ nghĩa để lỡm ḿnh, nhưng v́ được việc nên ông cũng vui vẻ ra về. Ngoài ra, trong sách Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam của Thu Hằng c̣n có thêm vài cuộc đối đáp, đàm luận thi phú giữa bà với vua Minh Mạng. 



3- Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh. Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm  huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).Theo gia phả họ Đoàn là Đoàn thị thực lục, th́ tổ tiên của bà vốn họ Lê, đến đời cha bà là Đoàn Doăn Nghi (1678-1729), mới đổi ra họ Đoàn. Ông Doăn Nghi thi đỗ Hương cống (Cử nhân) đời Lê,thi Hội không đỗ, nên ở nhà dạy học và bốc thuốc. Ông cưới vợ (họ Vũ, không rơ tên), sinh được hai con: con cả là Đoàn Doăn Luân (1700 - ?) và con thứ là Đoàn Thị Điểm  Lúc trẻ, bà có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn và giỏi cả việc nữ công Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu Suốt thời gian từ lúc ấu thơ đến tuổi trưởng thành, bà thường sống với cha và anh ở nơi cha dạy học là làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộc thành phố Hải Pḥng). Năm bà 25 tuổi (1729), cha mất, bà cùng với gia đ́nh của anh dời đến ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Chẳng bao lâu sau anh mất (không rơ năm), bỏ lại một đàn con nhỏ, một ḿnh Đoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chị dâu nuôi các cháu. Theo Từ điển nhân vật lịch Việt Nam, khi ấy ở Sài Trang thuộc huyện Đường Hào có một người con gái được tiến cung, và bà đă được vời vào cung làm Giáo thụ để dạy người con gái ấy. Đến năm 1739, nhân trong nước có loạn, bà xin từ chức về ngụ ở xă Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, ngoại thành Hà Nội) tiếp tục làm nghề dạy học .Bấy giờ, có nhiều người đến hỏi, trong đó có cả những người quyền quư, nhưng bà đều từ chối Măi đến năm 37 tuổi (1742), bà mới nhận lời lấy Nguyễn Kiều (1695?-1792?), một Tiến sĩ nổi tiếng hay chữ đă góa vợ. Nhưng vừa cưới xong, Nguyễn Kiều lại phải đi sứ sang Trung Quốc ba năm. Theo Từ điển văn học (bộ mới), có lẽ trong thời gian xa chồng này bà đă dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm của danh sĩ Đặng Trần Côn.
Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị ở Nghệ An Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảm nặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch) năm đó (Mậu Th́n, 1748), lúc 43 tuổi  Thương cảm người bạn đời vắn số, Nguyễn Kiều viết bài văn tế, hết lời ca tụng văn tài và đức hạnh của bà. Trong đó có câu: Đào chưa tươi đă khô/Quế đang thơm đă rũ /Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu/Ngọc nát châu ch́m ḷng tôi quặn nhớ... Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời bà thường xướng họa thơ với cha, với anh và với chồng Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ c̣n có tập truyện chữ Hán tên là Truyền kỳ tân phả(khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), và một ít thơ văn (gồm chữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây, nhưng trong đó có không ít sai lẫn  . Về bản dịch Chinh phụ ngâm (Chinh phụ ngâm khúc diễn âm) của bà, hiện nay vẫn chưa khẳng định là bản nào. Nhiều người cho đó là bản đang lưu hành rộng răi, nhưng có ư kiến nói bản đó là của Phan Huy Ích[14], c̣n bản của nữ sĩ họ Đoàn là một bản khác. Song theo GS. Nguyễn Lộc, th́ "một điều có thể khẳng định được là bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm là bản dịch đầu tiên của tác phẩm này"Giai thoại
Có lần Đoàn Doăn Luân thấy Đoàn Thị Điểm đang ngồi soi gương, bèn ra một vế rằng: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (nghĩa là “soi gương vẽ mày, một nét hóa thành hai nét”; song chữ điểm c̣n là tên bà Điểm, thành ra lại có nghĩa nữa là “một bà Điểm hóa hai bà Điểm”). Lúc ấy, ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền đối rằng: Lâm tŕ ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (nghĩa là “ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hóa hai vầng; song chữ luân c̣n là tên của ông Luân, thành ra lại có nghĩa nữa là “một ông Luân hóa hai ông Luân) Ngoài ra, trong dân gian c̣n truyền tụng một số chuyện như “Da trắng vỗ b́ bạch" (ra vế đối cho Cống Quỳnh đối lại), "Hổ thật thành hổ giấy" (ra vế đối cho "Tràng An tứ hổ" đối lại), "Trượng phu Bắc quốc đều từ đó mà ra" (đáp lại câu đối của sứ thần Trung Quốc), v.v... Trước đây, chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là Tiến sĩ Nguyễn Kiều được an táng tại khu vực Vườn Đào (thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội ngày nay). Do yêu cầu giải phóng mặt bằng để tiến hành thi công công tŕnh phục vụ dân sinh, Hội Khảo cổ học Việt Nam đă phối hợp với Ban Quản lư Di tích Danh thắng Hà Nội tiến hành khai quật khẩn cấp ngôi mộ ông vào ngày 24 tháng 7 năm 2011, và đưa về hợp táng bên mộ bà ở tại thôn Phú Xá (nay là cụm 4, cũng thuộc phường Phú Thượng), sau "259 năm xa cách" Hiện nay tại Hà Nội cũng như một số tỉnh thành phố ở Việt Nam có nhiều đường phố và trường học mang tên Đoàn Thị Điểm.


4- Sương Nguyệt Anh

Sương Nguyệt Anh (1 tháng 2 năm 1864 - 20 tháng 1 năm 1921) tên thật là Nguyễn Thị Khuê (theo “Nguyễn chi thế phổ”) tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà c̣n kư nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài G̣n Sương Nguyệt Anh sinh tại xă An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư (tuy nhiên trong gia tộc thường gọi bà là Năm Hạnh) của nhà thơ Nguyễn Đ́nh Chiểu, mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc. Thuở nhỏ, bà cùng người chị tên là Nguyễn Thị Xuyến, được cha (Đồ Chiểu) truyền dạy nên giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi cả hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều Năm 1888, Sương nguyệt Anh được 24 tuổi th́ cha mất. Tri phủ Ba Tường đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang ḷng oán hận, đang t́m cách hăm hại...Để tránh tai họa, bà cùng gia đ́nh người anh (Nguyễn Đ́nh Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính  sinh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, th́ chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học tṛ trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ “sương”, thành "Sương Nguyệt Anh", có nghĩa là Nguyệt Anh goá chồng. Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học. Năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ Nữ giới chung nghĩa là "tiếng chuông của nữ giới". Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1 tháng 2 năm 1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai tṛ phụ nữ trong xă hội Nhưng dù ng̣i bút của Sương nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại, tháng 7 năm 1918, tờ Nữ Giới Chung bị đ́nh bản ]. Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà tên Nguyễn Thị Vinh vừa sinh nở xong, ngă bệnh qua đời. Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc chồng, lại phải khóc con cộng với việc viết lách rất lao tâm, khiến đôi mắt của bà thường xuyên đau nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Ḥa (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đ́nh Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù ḷa hẳn. Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục ḍ dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức 9 tháng 1 năm 1922), Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58 tuổi [ Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959) được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đ́nh Chiểu ngày nay  Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ c̣n tản mác một số bài thơ, như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự , Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến...Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề... Ngoài bản dịch bộ Yên Sơn ngoại sử của Trung Quốc ra thơ lục bát, một số ít bài thơ chữ Hán, thể vè lục bát; thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là thơ Nôm, theo thể Đường luật... Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang dở của ḿnh, bà viết: Năm canh thức nhấp...năm canh những/Nửa gối so le, nửa gối chờ/Vườn én rủ ren trên lối cũ, Canh gà xao xác giục t́nh xưa... Nhưng phần nhiều, thơ của bà là để đối đáp lại những người đă trêu ghẹo, đă tỏ t́nh với ḿnh, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Bộ, như: "Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc", "Họa thơ Bảy Nguyện", "Họa thơ Phủ Ngọc", "Họa thơ Bái Liêu", "Thưởng Bạch Mai", "Vịnh ni cô"...Trong số bài thơ khác, Sương Nguyệt Anh đă kín đáo gửi gắm tấm ḷng yêu nước, thương dân, quan tâm đến thời cuộc, trích: Vui ḷng thánh đế nơi xe ngựa,/ Xót dạ thần dân chốn lửa than/Nước mắt có cùng trời đất biết,/ Biển dâu một cuộc thấy mà thương. (Vua Thành Thái vào Nam) Nh́n chung Thơ Sương Nguyệt Anh không có ǵ thật đặc sắc, nhưng lời lẽ thanh thoát, có ư vị. Thể vè do bà sáng tác có cái chất mộc mạc của thể vè truyền thống miền Nam, vừa giữ được ng̣i bút cứng cáp, có truyền thống trong gia đ́nh... Năm 1915, ông Việt sĩ sau khi đă khen ngợi Sương Nguyệt Anh rằng: Cuộc đời bà đă trải qua biết bao đau khổ, nhưng biết bao nỗi khổ đó h́nh như để thử thách người thiếu phụ kiên trinh , ông c̣n nhận định như sau: Nhắc đến Sương nguyệt Anh, người ta c̣n thấy lại nơi bà một tấm gương hoạt động cho phái nữ lưu; người ta không quên một cây bút rắn rỏi đă từng nêu trên tờ Nữ giới chung nhiều vấn đề lư thú về phận sự đàn bà đối với gia đ́nh và xă hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiêp xúc với văn hóa Âu Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt.

 

Nguyễn Chính Viễn

 

Nguồn:  http://trannhuong.net/tin-tuc-15185/nhung-nu-van-si-dau-tien-cua-viet-nam.vhtm