Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương

Đng Tiến

 

                Vũ Hoàng Chương (1916-1976)

 

                                                  Gửi chị Thục Oanh 



Xuân đă đem mong nhớ trở về” 

Câu thơ Nguyễn Bính, ư thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đă ... đau ḷng một chữ đă. Xuân đă. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng. 
Lần này, ở đây, Xuân đă đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang. 

Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân. 

Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đă tự giam thơ giam đời trong mươi chữ: 

Xuân đời chưa kịp hưởng 
Mây mùa thu đă sang ? 


Nhà thơ đă tự t́nh như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người c̣n giăng tơ tâm sự 

Xuân có sang mà hoa không tươi 
ư ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi 
Nằm say ngơ lạnh 
Buồn nghe mưa rơi 
Tuôn châu oà bật lên cười 
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi 
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ 
Hoạ điệu chiều nay xác ră rời
 

Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là: 

Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay 

Đă có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn c̣n xương c̣n thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương. 

Tác phẩm đầu ḷng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân. 

Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về 
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê 
T́nh Xuân ai chở đầy khoang ấy 
Hương sắc thanh b́nh ngập lối quê. 
Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi 
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời 
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím 
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
 

Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đă Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, v́ không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như măi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đă nhuốm màu Thiền. Bài Thoát H́nh gồm 7 đoạn, một vần: 

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần 
Đă nghe dồn cả tới đài xuân 
Đă nghe rào rạt từng cơn gió 
Về mách tin hương với cơi trần 
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể 
Vâng theo ư lớn nhịp xoay vần ... 
... Ta mở trang ḷng nguyên vẹn măi, 
Chưa từng hoen ố vết trầm luân 
Đêm nay xuống một bài thơ trắng 
Cầu nguyện cho đời nở ái Ân
 

Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đă róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát H́nh c̣n mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau. 


oOo

Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ... là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân. 
Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ: 

Mười năm qua, đến bây giờ 
Nh́n nhau thấy cả giấc mơ thưở nào .. 


(...) 


Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao 
Gịng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào 
Lạc lơng vàng son màu lữ thứ 
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào 
Mười phần xuân có gầy hao 
Tấm ḷng xuân vẫn dạt dào như xưa 
Mấy phen biếc đón hồng đưa 
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
 

Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đă bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này: 

Có nghĩa ǵ đâu một chữ "về " 
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê 
Nếu không ngược cả mười năm ấy 
Về tận kinh đô của ước thề 

Theo Chế Lan Viên, chữ "Về " là "cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa ǵ cả, th́ trong tâm hồn nhà thơ này không c̣n ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa" 
Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, v́ chữ "về", trong bài thơ, không có ngụ ư chính trị, chỉ là một ước vọng t́nh cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đă là một lối t́m về: 

Lang thang từ độ luân hồi 
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
 
(Nguyện Cầu, 1950) 

C̣n mấy chữ "có nghĩa ǵ đâu", là phỏng theo Xuân Diệu: 

Làm sao cắt nghĩa được t́nh yêu 
Có nghĩa ǵ đâu một buổi chiều
 

Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ư thời sự th́ nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ư nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một t́nh cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - "có nghĩa ǵ đâu" . C̣n về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đă nhiều lần nói đến: "Mười năm thôi nhé mộng tan tành" ... , 
"T́nh mười năm c̣n lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đă hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và c̣n cho biết thêm: ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy. 

Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương c̣n có Bài Ca B́nh Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung: 

Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới 
Sầu xuân vời vợi 
Xuân tứ nao nao 
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào 
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái 
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
 

Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc "hát ngao" hơn là một anh hùng ca. 
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng 

Chín giao thừa, tám năm dư 
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
 


(...) 


Khói đâu mờ tím căn buồng 
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao 
Cố đô lửa cháy gan nào 
Sài đô son sắt như bào, như nung 

Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hăi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt: 

Chợ Tết mai lan cúc 
Đắm ḿnh trong bụi đục 
Từng phiên nép mặt hoa 
Thẹn không bằng khóm trúc 


(...) 


Liên miên khói lửa này, 
Dám đâu mơ hạnh phúc 
Lần lượt tre rồi măng 
Đă tơi bời cốt nhục 
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận: 
Thân càng xót cho thân 
Uổng gây h́nh ngọc đúc 

Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao năo nuột: 

Miệng héo dần theo ḷng khắc khoải 
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái 
E khi chiều xế, tuyết thay tơ 
Không cả chút t́nh thương nắng quái 
Kẻ vô-hạn-hận không là gió 
Xuân đến trà mi đời tự bỏ 
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang 
Cùng ai gửi chút hương ṿ vơ ? 

Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với h́nh ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng... 
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương: 

Ma sợ cung vôi chạy vọt lên 
Người thơ giữa lúc mở bầu men, 
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách 
Đạn rót trời cao đă nổ rền 

Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài: " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc): 

Lăng miếu gần kề lưng chó sói 
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
 


(...) 


Đạn réo vang vang lửa bốn bề 
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê 
Sốt dâng mạch loạn càng u uất 
Máu chảy ruồi bâu thật năo nề
 

Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện: 

Mong người một nước soi gương cũ 
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
 
(Huế Cảm) 

Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, t́nh h́nh chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi: 

Tin Xuân gà gáy rách trời đêm 
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm 
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước 
Một nhà trong ấm với ngoài êm
 
(Mở Bút ghi Điềm) 

Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên: 

Chữ lựa vần gieo đắc ư rồi 
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi 
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng 
Hỏi chúa xuân rằng: ai có ngôi ?
 
(Hạnh phúc nào hơn) 

Vũ Hoàng Chương thi sĩ c̣n là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán: 

Kỷ Dậu hồi thanh 
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên 
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền 
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ 
Hoà âm xuân thảo nhiễu b́nh nguyên
 

Ông tự dịch: 

Tiếng vang lịch sử 
Đất xưa gà gáy mặt trời lên 
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền 
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi 
Hoà âm cỏ ngát xuống b́nh nguyên 

Đặng Tiến dịch ké: 

Gà thúc b́nh minh sông núi xưa 
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa 
Sườn non lưng núi lời hoa mở 
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
 

Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Măo-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời ḿnh, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc: 

Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long 
Bến nằm dư biết đục hay trong
 


(...) 


Chỉ thương kiếp đá ai bày trận 
Để ngấn vàng gieo chợt rối ṿng
 

Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy.
Tết năm sau, 1970, bài "Xúc Động Cuối Năm" thật buồn: 

Chơi xuân đất này không cỏ non 
Thơ không vàng nữa, ấn không son 
Hỡi ơi ḷng chợt đau như cắt 
Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n
 

Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ: câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành: " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ư từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa: 

Mùa vàng hoa mai hoa cúc 
Mùa son hoa phượng hoa vông
 


(...) 


Mùa vàng giàu thật giàu 
Mùa son sang rất sang
 
(Đông Hồ) 

" Một nụ cười xuân cũng chẳng c̣n ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ. 
Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc: 

Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây 
Thương xuân ĺa cội, Tết sa lầy 
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch 
Phá vỡ ṿng sao tự giải vây 
Mách cho Lă Vọng về đây 
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
 

Tuư Ông ngồi rũ cánh Lan buồn 
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn 
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực 
Âm thanh Cuồng sát tự d́m luôn
 
(Xuân Đối Diện) 

Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời: 

Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây 
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây 
Nh́n nhau chuột nhỏ tung tăng dạo 
Vừa uống sông xuân một bụng đầy 
(Nhâm Tư khai bút) 

Tác giả tự dịch ra Hán Văn: 

Trường chinh mộng hậu tức phong yên 
Thiên lư long câu vạn lư thuyền 
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử 
ẩm hà măn phúc tuư xuân thiên
 

Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy c̣n u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh ": 

Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện 
Ngơ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu 
Lầu Vọng-giai-nhân măi quạnh nằm 
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm 
Đắng cay thế vị ḷng vương giả 
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm 


Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rơ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quư Sửu (nhằm ngày 3.2.1973): 

Bấm đốt từ di cư đến nay 
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay, 
Sang sông Ngựa đă hai lần hí 
Vạch đất Trâu thêm một luống cày 
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc 
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây 
Bút toan chạy ngược đau ḷng chữ 
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây 
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác 
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say 
Hằng nga bỏ địa cầu đi măi 
Tết đến buồn không chịu vẽ mày 
Xưa rồi lửa phóng tên bay 
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn 
Bóng ai trên đá ngồi gan 
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi 
Trời xuân chẳng én đưa thoi 
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua 
Nghé kêu đầy bến vàng hoa 

(dẫn trọn bài) 


Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quư Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi kư hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm: 

Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc 
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
 

Câu thơ ngụ ư: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng t́nh dân tộc, nhưng không mấy người để ư, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ "chống cộng" để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội. 
Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đă có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đă hai lần hư là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quư Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ư bài thơ làm tại Sài G̣n, tên cũ là Bến Nghé. 

Sau đó, hiệp định Paris kư ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quư Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu: 

Ma là Người ... kiếp khác 
Người là Trời ... đêm nay 
Nghe chừng lửa đă tắt 
Hai bờ Con-Sông này 
nhỉ ! đâu c̣n Vết Cắt 
Sao ḷng ai vẫn chưa hay ? 
Nằm kia, người nín bặt 
Ṿng luân hồi đă ngược chiều quay 
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
 
(Tin Xuân) 

Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh b́nh cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh b́nh và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân. 
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuư Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, v́ ít người c̣n lưu giữ: 

Cỏ Bồ ôm đá ngủ 
Trong tranh từ bao giờ 
Cho đến bây giờ 
C̣n say trong thơ 
Vườn bỗng hót vang chim Thuư Vũ 
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa 
Nét bút gầy theo mực úa 
Bao năm rồi tiêu sơ 
Có phải xuân đang từ đáy lụa 
Một chiều sâu không ai ngờ 
Truyền tin về giấc mơ 
ánh nguyệt mung lung cành lăng đăng 
Nghe ḷng trời đất ươm tơ 
Nguyệt vẽ mày cong dĩ văng 
Cành đơn hoa trắng tương tư 
Ôi thôi áo vải đă màu nâu thuyền đă hư 
Mối manh ǵ nữa c̣n ai nữa 
Đành kết vào hương Thuư vũ từ 

Tác giả giải thích: Thuư Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa: hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quư ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để c̣n nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974). 


oOo 

Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Th́n, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng v́ truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đă than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn: 

Vịnh tranh Gà Lợn 

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành 
Gà lợn, om ṣm rối bức tranh 
Rằng vách có tai, thơ có hoạ 
Biết ḷng ai đỏ, mắt ai xanh 
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng 
Ḷng lợn âm dương một tấc thành 
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn 
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh 

Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú:  Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng th́ phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trăi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ư đến những tục ngữ: " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ ḷng ". Nhưng c̣n nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như: " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ư " đoạn trường " . C̣n ư nghĩa, ngụ ư dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ th́ chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. 
Chỉ mong văn giới ghi nhận: đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Th́n 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm th́ mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm B́nh Th́n, lúc 23 giờ. 

oOo 

Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm v́ yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để kư hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu. 
Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quư vị nào biết xin vui ḷng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này. 

Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong ḷng người đọc thường là: 

Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. 

Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao h́nh thành trên mất mát. 
Cao quư và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát. 

Đặng Tiến 
Paris, Tết dương lịch, 1/1/2001

 

Nguồn:  http://poem.tkaraoke.com/18853/Tho_Xuan_Vu_Hoang_Chuong___Ddang_Tien.html