NHN THC V NGH THUT

Vơ Công Liêm

 

 

 

          Vị trí của nghệ thuật nằm trong mức độ nhận biết của con người, có lẽ; gần như là biện chứng ngăn cách tư tưởng giữa tiến tŕnh thuộc khoa học sinh lư tự nhiên và một thứ thoái trào, đ́nh trệ đối với nhân loại ngày nay. Đứng trên lănh vực của nhận biết; con người cần phát triển nhanh để thực hành việc lùng kiếm con đường dẫn đến những ǵ là bí truyền thuộc nghệ thuật; trong điạ hạt khác của thẩm mỹ, đây là một thực hiện c̣n lại đầy năng lực và trở nên nhiều thứ vụng về, thô thiểm hiện ra ở ngày nay –In fields of knowledge, men have out-grown the practice of seeking the guidance of mystic oracles; in other field of esthetics this practice has remained in full force and is becoming more crudely obvious today. Mà coi như hiện tượng ban sơ được thừa nhận, chấp nối vào nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật hội họa, điêu khắc và tạo h́nh đă hướng tới nền móng này như trường hợp của Picasso, Matisse (một thời nghiêng về nghệ thuật Phi Châu) Gauguin (lấy nghệ thuận biển đảo hay đại đương làm chủ đề) và một số họa nhân đă biến thể một số tác phẩm qua nhiều trường phái khác nhau hoặc lập nên một hệ thống nhận thức riêng biệt cho tác phẩm với ư thức nhận biết của ḿnh. C̣n nghệ thuật sơ khai là những ǵ không thể giản lược hay cắt bỏ bước đầu của nó; không có vấn đề nêu ra sự cớ, hoặc phân tích lư giải nguồn cơn, tự sự mà coi như lănh điạ độc đáo của những con người ma quái; có thể là vô danh. Rứa cho nên nghệ thuật cổ sơ mà tâm lư khoa học luận đă nhận ra nó là một thứ nghệ thuật khai mở: chỉ khác ở chỗ hoang sơ tiền sử th́ không quan tâm.Vị chi nhận thức về nghệ thuật thuở ban sơ đă hiện h́nh trong một ư thức nhân tính với những đường nét giữa người và vật nguệch ngoặc trên vách đá, đồng đúc, tạc tượng kim loại hoặc gỗ; đều mang tính chất ma qủy, thần bí hay hoang đường, tiêu biểu cổ La Hy và những bản điạ cận Đông. Đó là chức năng của đời sống con người hoặc là nguyên nhân táo bạo thuộc về sinh lư.

Hẳn nhiên nghệ thuật là một thứ đam mê nồng nhiệt, quan trọng và sâu sắc, một chú ư cá thể của loài người. Đấy là nhận thức về nghệ thuật ‘Conception of Art’ hay c̣n gọi là tâm lư khoa học luận của nghệ thuật ‘The Psycho-Epistemology of Art’.

Nhận thức về nghệ thuật một cách xềnh xoàng là nhận thức chưa thấu triệt đường lối nghệ thuật và khẳng định được giá trị chính xác thế nào cho một tuyệt phẩm, bất luận ở bộ môn nào, bởi; nghệ thuật dù dưới dạng thức nào đều phải có ‘thức’ và ‘nhăn’ thời mới thấy được chất lượng của nó với hai bề mặt nội quan và ngoại quan; nhất là trường phái hội họa (hội họa là âm vang là tiếng động) không c̣n nh́n qua màu sắc hay đường nét mà là một tổng thể bao hàm. Nghĩa là đứng trước một họa phẩm không để thấy, ngắm, nh́n mà nghe thời mới định nghĩa được thứ nghệ thuật không hóa tức chân không. Nhưng nhớ cho; nghệ thuật tùy vào cái không thể xă hội hóa (non-socializable) mà là ở vị trí hiện thực của vũ trụ quan và cũng không là sở hữu riêng ai (non-collective); mà nó đến trong nhận thức siêu đẳng tự nhiên của con người. Một trong những khác biệt nhận ra được đặc thù của tác phẩm nghệ thuật luôn cả văn chương. Một tác phẩm văn học (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, thơ, kư…) là tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ bởi sáng tạo chớ không phải mưu cầu, chất liệu hạng nhất (material high-end), nhưng chất liệu là làm nên ở tự nó, tác phẩm làm nên không ngoài mục đích ‘suy/thinking’ chớ không làm nên để ‘thưởng ngoạn/contemplation’. Rứa th́ gọi triển lăm, ra mắt làm chi rứa? –v́ đó là sự thỏa ḷng có cường độ cho việc thưởng ngoạn, ch́m đắm trong trạng thái ư thức nhận biết đó là kinh nghiệm của con người, là điều ắc-có-và-đủ, là tự nó đă xứng đáng (self-sufficient) và tự nó biện minh cho chính nó (self-justifying) từ khởi thủy cho tới về sau; rứa cho nên chi chuyện phê b́nh nghệ thuật phải là con người chuyên nghiệp th́ may ra định nghĩa chính xác từ trong ra ngoài tác phẩm, nôm na mà nói là người phải sành điệu của ‘tứ-khoái’ th́ lănh hội và thông đạt trọn vẹn thế nào là b́nh và thế nào là phê; c̣n bằng không chỉ là lư giải như một dẫn chứng thông thường gần giống như từ chương (điển tích, điển cố để xác minh) mất đi tính hiện đại nhân văn và nghệ thuật. Việc này kể cả văn chương và hội họa mà xưa nay chúng ta thường bắt gặp; có thể do cái nh́n thiển cận, có thể do cái nh́n một chiều mà làm cho giá trị tác phẩm trở nên hời hợt là ở chỗ đó. Nghệ thuật nói chung là một nhận định tinh tế.

Thông thường việc nhận định đúng đắng và biện minh lư lẽ cho tác phẩm, nó có hai cái nh́n khác nhau, một đằng là ‘cưỡng kháng/resists’ và một đằng là ‘bất măn/resents’ thời bất cứ gợi ư, ảnh hưởng hay lôi cuốn đều đi tới phân tích để t́m thấy lư sự; sự cố đó có thể tấn công vào đặc tính của nghệ thuật, vào cái trầm tư sâu lắng của một bản chất tự nó –essential-self. Nhận định nghệ thuật phải điều nghiên mới nói lên được giá trị của nó chớ cứ lấy sách báo cũ để chứng minh sự lư th́ việc phê nhận đâu c̣n độc đáo cho tác phẩm; mà trở nên sáo ṃn. V́ vậy đứng trên quan điểm này phải có cái nh́n khách thể để thấy thực chất tác phẩm nghệ thuật. Không có ai cảm xúc có thể là vô cớ hoặc không thể giản đơn và không liên can đến nguồn cơn của cảm xúc. Cái tồn lưu, tồn lại là nhu cầu của sự sống c̣n : ‘to the needs of a living entity’s survival’. Nói như rứa là lư tài cho một sự thách đố đ̣i hỏi về cái quyền đặc trưng của nghệ thuật? Không! nghệ thuật nó (it does) có mục đích và phục vụ nhu cầu của con người; chớ không vin vào chất liệu để làm nên, nhưng làm nên là nhu cầu ư thức nhận biết của con người. Nghệ thuật là cái ǵ buộc chặt vào sự sống c̣n của con người. Không phải sống c̣n thuộc về sinh lư nhưng sống c̣n ở đây tùy thuộc vào tồn lưu, tồn lại do từ ư thức của chúng ta mà ra –To the preservation and survival of our consciousness. Nguồn cơn của nghệ thuật đặc trong một dữ kiện nhận biết có tŕnh độ của con người; gọi chung một từ là nhận-thức/conceptual. Thí dụ: Có người nắm được sự hiểu biết và hướng tới hành động, không có nghĩa là đơn phương, cảm nhận riêng ḿnh nhưng do từ cái nghĩa ‘trừu tượng’ của hiện thể sinh ra. Thí dụ khác: Có người lại nghĩ rằng ḿnh có tŕnh độ nhận thức do đó có thể làm được những ǵ về nghệ thuật như viết văn, làm thơ hay vẽ nhưng tŕnh độ nhận thức chừng nào th́ ư thức chừng đó không thể tiến xa và gịng tư tưởng không thể phát tiết hơn được. Sự vụ này nó xâm nhập vào tiềm thức, h́nh ảnh hay ư niệm là tọa độ trong nhận thức của người nghệ sĩ, cái đó gọi là kiểu sống ‘life-style’ là mẫu thức không thay đổi: họa nhân A vẽ kiểu đó là kiểu đó, thi nhân B vận hành ngữ ngôn rồi nó cũng qui về kiểu đó. Văn nhân C có chuyển mạch văn tới đâu rồi vẫn nguyên trạng h́nh hài của văn nhân ở kiểu đó. Nghĩa là ‘tánh nào tật nấy’ và ‘văn tức là người’ xưa nay đều thế cả. Cho dù có cách mạng tư tưởng hay cách mạng văn hóa đi nữa rồi nó cũng trở về cái truyền thống của nó. Kiến thức đi theo tŕnh độ và tŕnh độ đi theo kiến thức, dù là thiên tài chăng nữa. Mà phải nh́n thứ nghệ thuật đó là siêu h́nh nghệ thuật. Răng lạ rứa? –có thể tư duy vượt ra ngoài sở năng và trí năng. Phải có một ‘concept’  trong một ‘psycho-epistemology’ (như đă giải ở trên) thời mới có một ư niệm nhận biết hoàn toàn. Sống c̣n đ̣i hỏi ư thức nhận biết thời mới tồn lưu nhân thế. Hiểu biết tự nhiên và chức năng của nghệ thuật là người phải hiểu tự nhiên và chức năng của ư niệm nhận biết. Nhận thức nghệ thuật là ǵ? –là phải ‘nghe’ v́ nghệ thuật có tiếng nói riêng của nó; là một thứ ngôn ngữ mới kể cả văn chương giờ đây không c̣n là từ ngữ mà là ngôn từ, v́; ngôn từ chúng ta thường dùng trở thành ư niệm nhận thức, một yếu tố vững chắc, một ư niệm gần giống như toán học là giải thích cụ thể từng đơn vị. Rơ ràng minh bạch của toán học gần giống như cái nh́n vào nghệ thuật không thể lệch lạc, ṿng vo tam quốc, c̣n bằng không th́ coi như hỗn mang, thuồng luồng phá rối trị an. Không giúp ích cho nghệ thuật mà giết chết nghệ thuật. Nhớ cho điều này: triết lư nghệ thuật là con nhà qúy phái trong mọi tầng lớp xă hội.

Ngữ ngôn là mật số của kư hiệu ‘tai nghe mắt thấy/ visual-auditory’ là chức năng phục vụ cho những ǵ thuộc về tâm lư khoa học luận / psycho-epistemological là biến đổi dạng thể trừu tượng trong dạng cứng nhắc hoặc diễn giải chính xác ư nghĩa trong dạng khó hiểu sang dễ hiểu của những đơn vị đặc biệt. Tâm lư khoa học luận là t́m hiểu về tiến tŕnh nhận biết của con người từ những khiá cạnh của tác động qua lại lẫn nhau giữa tâm trí và cơ năng của tiềm thức; có nghĩa là sợi giây liên lạc của những ǵ con người nắm bắt được và cũng cố cho một nhận biết thực sự. Nghe như rứa có mơ hồ không? Mơ hồ cái chỗ nào. Nghệ thuật là nhận thức: ‘Nghệ thuật là nồng cốt kết tinh của siêu h́nh / Art is a concretization of metaphysics’ Nó mang lại ư niệm nhận thức cho con người để đi tới cảm nhận tri giác là mực độ của ư thức (nhận biết) và cho phép được gói trọn tâm tư một cách trực chỉ nhân tâm của một tri giác nhạy bén.

Đó là những ǵ thuộc chức năng tâm lư khoa học luận của nghệ thuật và là lư do chính đáng trong vai tṛ đời sống của con người; và là cốt tủy của khách thể thẩm mỹ / and the crux of the objective esthetic.

Thuở xa xưa cái nh́n vào nghệ thuật tuồng như có tính trừu tượng và siêu h́nh bởi qua nhận thức, qua tiếp cận; cuộc đời và con người có một biên giới vô h́nh, điều không nghĩ tới hay không làm tới. Tâm thức của con người trước vũ trụ quan là cơi ngoài (beyond) là lạ (strange); v́ vậy mà nhận thức một đôi khi xa vời thực tế v́ cái nh́n không thực. Nhưng; hôm nay nhận thức trở nên nhu cầu, nhất là nhận thức nghệ thuật nó đ̣i hỏi con người có hai mặt: tâm lư và sinh lư để đi vào trong một nhận thức hiểu biết, đặc biệt là ngữ ngôn, một thông điệp bén nhạy giữa người sáng tạo và người nhận biết, ngay cả ngữ ngôn trừu tượng cũng trong dạng thuộc tâm lư khoa học luận tương tợ cốt cách siêu h́nh. V́ rứa mà nghệ thuật biến chuyển siêu h́nh trừu tượng của con người trong cùng một dạng thể đông cứng kết tinh, đồng thời là một tồn thể (entities) khai mở trực tiếp đến tri giác của con người. Thỉnh cầu duy nhất và nh́n nhận rằng: ‘nghệ thuật là một ngữ ngôn phổ quát toàn diện / art is a universal language’; nghệ thuật không c̣n là phép ẩn dụ trống rỗng, mơ hồ, vớ vẩn, tào lao, ta bà thế giới, cà kê, dê ngổng. Rứa th́ muốn nói cái chi trong đó? Dễ thôi! -là một thứ văn chương trung thực, nguyên chất / it is literally true- ăn ngay nói thực, có sao nói vậy, không tán hươu, tán vượn, tán ẩu… thời mới gọi là nghệ thuật chân như, một kết tinh trong sáng của sáng tạo nghệ thuật. Triết lư nghệ thuật bao la vi diệu. Cho nên chi cảm thức trong chức năng của tâm lư khoa học luận là khai mở bởi nghệ thuật –in the sense of the psycho-epistemological function performed by art. Để nghệ thuật tồn lưu nhân thế, một nhận thức rơ ràng minh bạch tức nhận ra được nghệ thuật chân chính tự nó. Nhưng nhớ cho: nghệ thuật được tồn lưu nhân thế là nghệ thuật tồn thể, nhất thiết không tồn lui, tồn loạt; c̣n suy tư khác hơn là đánh rơi giá trị nghệ thuật; thời đó là trạng huống suy đồi, suy vong, là nhận ch́m nghệ thuật vào ḍng sông thủy tử.

Nh́n vào lịch sử nhân loại th́ nghệ thuật đă xâm lấn, lũng đọan, chiếm cứ, bắt chụp như thêm vào đó một thứ nghệ thuật độc quyền của tôn giáo. Tôn giáo là thể thức sơ khai của triết học; nó đưa ra những qui ước, cung cấp cho nhân loại có cái nh́n của niềm tin về hiện hữu tồn lưu. Nh́n vào nghệ thuật là nh́n vào một nền văn hóa nguyên sơ đă kết tinh một thứ tôn giáo siêu h́nh cho một thứ luân lư đạo đức phi thường trừu tượng. Một biện minh chính xác về tâm lư khoa học luận là tiến tŕnh liên đới với nghệ thuật, có thể cho ta một khiá cạnh tương đối lănh hội được về nghệ thuật: đặc điểm trong văn chương (hội họa, thi ca và kịch nghệ) có vô số tiềm năng sáng tạo và phát tiết; thế nhưng trong những nhu cầu đó là những ǵ phức tạp, rắc rối mà một đôi khi đă đi lạc đường hoặc tạo ra những ǵ lúng túng. Ấy là điều khó khăn để làm nổi bậc cá tính con người trong nhận thức trừu tượng và cho dù có đứng riêng hay hợp nhất vẫn không thể mang hết trong một lư trí nhận biết, trong khi chúng ta đang đi t́m một sự đả thông tư tưởng là nhận thức và một tâm lư khoa học luận. Nghệ thuật là một phương tiện, môi giới không thể bỏ qua được cho sự truyền đạt của ư tưởng luân lư. Không có nghĩa rằng nghệ thuật là một hiện thể thay thế cho một tư duy thuộc triết học: không có nhận thức lư thuyết về đạo đức, một nghệ sĩ cũng chưa hẳn đạt đến một kết quả viên măn cho một h́nh ảnh ư tưởng riêng ḿnh. Nhưng không có trợ lực của nghệ thuật thời luân lư đạo đức chỉ c̣n lại trong một vị trí của những ǵ thiết bị xây dựng: ‘nghệ thuật là mẫu thức xây dựng / art is the model-builder’. Đúng; bởi ngày nay giữa nghệ thuật và con người hoà đồng trong một nhận thức để tạo nên vật thể lư tưởng. Không có nghệ thuật thời không có tiến hóa con người. Đó là những ǵ chúng ta đặc vấn đề nhận thức vào trong một tâm lư khoa học luận; một thứ nghệ thuật và cảm thức của cuộc đời –art and sense of life đang sống hôm nay và mai sau.

Bất luận những ǵ thuộc siêu h́nh đưa ra sẽ là cần thiết cho việc định lượng những ǵ thuộc tâm thức và có một ảnh hưởng rộng lớn về thói tính của con người, tuy nhiên; đứng trên mặt đạo đức đôi khi tánh hư tật xấu cũng được tha, bởi trong mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có một chủ đề của nó để làm nên (ngoại trừ hứng ẩu) và cần thiết để chuyển tải cho một kết quả nhận thức đạt được; đôi khi cũng là ‘thông điệp’ nhắn gởi đến người thưởng ngoạn. Nhưng thông điệp ở đây là một gián tiếp vấn đề chớ chẳng là điều phải lưu ư, mà nó chỉ là kết quả thứ yếu chưa hẳn phải đă làm nên cho tác phẩm. Cái khó của nghệ thuật là phải có tầm nh́n của ‘thính,trí’ và ‘nhăn,tạng’ mới là hiệu năng. Răng lạ rứa? -bởi nghệ thuật không có nghĩa là đưa dẫn tới bất cứ một tri thức hay giáo điều nào cả. –Art is not the means to any didactic end. Mà đây là một sự khác biệt giữa tác phẩm nghệ thuật và tṛ chơi luân lư hoặc vai tṛ tuyên huấn. Một tác phẩm đại là tác phẩm sâu sắc, uyên thâm đ̣i hỏi phải suy nghiệm để thấy từng chi tiết ẩn tàng trong chủ đề của nó. Nghệ thuật không có nghĩa là mượn ư thay lời hay xào đi, nấu lại. –Art is not the means of literal transcription. Mà đây là một sự khác biệt giữa tác phẩm nghệ thuật và những chuyện thời sự, phong thần, xe cán chó, chó cán xe hoặc ba cái thứ tào lao, ta bà làm rộn trí nhân tâm. Vị trí của nghệ thuật là đỉnh cao siêu thoát để t́m thấy tự do. Một nơi dự trử những ǵ có tính chất luân thường đạo lư trong bất cứ tác phẩm nào (văn, thi, họa, kịch) đều chất chứa một cái nh́n siêu h́nh, trừu tượng của người nghệ sĩ. Trong trường hợp nào đi nữa; cái nghĩa thẩm mỹ cũng là một tiến tŕnh của tâm lư khoa học luận ảnh hưởng vào trong đó. Nhớ rằng trừu tượng hay siêu h́nh thật ra không có hiện hữu tồn lưu: mà là một phương thức bước vào cảm nhận; một thứ cảm nhận mới tinh túy và sáng tạo. Cho nên chi cái ǵ gọi là siêu h́nh trừu tượng của con người là một thứ nghệ thuật đối đầu trong một dạng thức kết tinh cụ thể (concretization) để làm nên nghệ thuật. Đây là điều quan trọng được nhấn mạnh; dù cho tư duy về giá trị luân lư là không thể giải quyết được, hoặc có liên can đến nghệ thuật mà chỉ liên can như một kết quả nào đó chớ không phải đó là sự cớ nguyên nhân: bởi trọng tâm ban đầu của nghệ thuật là siêu h́nh chớ không phải luân lư, giáo điều. Nghệ thuật không phải là ‘nàng-hầu’ của luân thường đạo lư, nết na, nhu ḿ, chỉ đâu ngồi đó; mục đích cơ bản của nó là không cần học thức, không cải cách hoặc bào chửa, bao che cho những ǵ liên đới tới nghệ thuật. Mà đ̣i hỏi một sáng tạo mới, thực và trong sáng.

Nói tóm lại; nhận thức về nghệ thuật là vai tṛ cảm xúc trong nghệ thuật và tự động hóa của tiềm thức là những ǵ phục vụ như một nhân tố hợp nhất trong những ǵ thuộc về sáng tạo, nhất là lănh vực sáng tạo nghệ thuật kể cả văn chương và trong những ǵ đáp ứng nhu cầu nghệ thuật mà tất thảy những yêu cầu đó có dính dáng tới hiện tượng thuộc tâm lư học; đó là những ǵ mà chúng ta thường gọi chung một cụm từ: ‘cảm thức của cuộc đời / a sense of life’. Sao gọi là cảm thức của cuộc đời? -là bước cảm nhận tương đương với siêu h́nh: cảm xúc, tiềm năng, tri nhận là một đánh giá về con người, về sự tồn lưu nhân thế trong một ư niệm được giới thiệu như chủ đề của tâm lư khoa học luận qua vai tṛ, chức năng và nhiệm vụ của nghệ thuật. Mà trong kỷ nguyên này chúng ta đang theo đuổi cho một trào lưu mới ./.     

VƠ CÔNG LIÊM

(ca.ab.yyc. maxwell 13/7/2015)

 

SÁCH ĐỌC: ‘A Philosophy of Literature’ by Ayn Rand. A Signet Book- New American Library. New York. NY USA 1971.