QUẢNG NAM QUA CA DAO   

Nguyn Quư Đi 

 

Trưa hè Chùa Cầu

 

 

 

“Đất Quảng nam chưa mưa đă thấm

Rượu Hồng Đào chưa uống đă say

Bạn về đừng ngủ gác tay

Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy th́ theo”.

 

                                                        

        Nói đến Quảng Nam người ta thường nghĩ đến vùng đất mở đầu cho cuộc Nam tiến từ đó làm bàn đạp tiến đến đồng bằng sông Cửu Long. Quảng Nam có các nhà cách mạng, khoa bảng gọi là đất “ Địa Linh Nhân Kiệt” “Ngũ Phụng Tề Phi”, góp phần vào xây dựng đất nước, đem lại điểm son lịch sử nước nhà, và cũng là vùng đất của thi ca, đóng góp vào lâu đài Văn Hóa Dân Tộc. Trong nhân gian ca dao truyền tụng qua câu ḥ giọng hát, phong phú và lăng mạn. Câu chuyện cô gái hái dâu tại Địên Bàn nhờ tâm hồn văn nghệ lời ca trữ t́nh, giúp cho nàng bước lên  đỉnh cao của danh vọng. 

 

Theo Đại Nam Liệt truyện ghi lại  Săi vương Nguyễn Phước Nguyên (1563-1635) lúc c̣n là Thái tử làm Trấn thủ  Quảng Nam. Nguyễn Phước Lan con thứ của Săi Vương (1601-1648) là cháu ngoại của Mạc kính Điển. Nguyễn Phước Lan đi du thuyền trên sông Thu Bồn trong đêm gió mát trăng thanh, thuyền Thế tử đang lững lờ trôi giữa ḍng bỗng nghe tiếng hát  giọng ca  trong trẻo của cô thôn nữ từ xa vọng lại.

                       

Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng   

Thiếp thương phận thiếp mà hồng nắng mưa         

Thuyền rồng Chúa ngự đi đâu                      

Thiếp thương phận Thiếp hái dâu một ḿnh

 

         Tiếng hát thanh tao gữa đêm trăng gợi trí ṭ ṃ của Thế tử Lan cho thuyền cập vào bờ, nơi đó là băi đất trồng dâu ở ven sông thuộc gành Điện Châu c̣n gọi là An Phú Tây thuộc quận Điện Bàn ngày nay. Khi lên bờ Thế Tử Lan gặp thiếu nữ 16 tuổi xinh đẹp đang hái dâu dưới ánh trăng vàng. Nguyễn Phước Lan  đến với nàng, như hai siêu tầng số tâm hồn gặp nhau, t́nh yêu đến thật t́nh cờ không hẹn ước phải chăng đó là duyên nợ định mệnh an bài. Săi vương cho phép Nguyễn Phước Lan làm lễ thành hôn với nàng “hái dâu” là  Đoàn Thị Ngọc con gái thứ 3 của quận công Đoàn Công Nhạn quê Điện Bàn


        Thế Tử xin Chúa cho phép nàng được vào hầu trong phủ. Kể từ đó, bà trở thành phu nhân Thế tử. Nguyễn Phước Lan nối ngôi Chúa (1635-1648) là Công-Thượng-Vương, bà Đoàn Thị Ngọc được Săi vương sủng ái đưa lên chánh phi, phong Hiếu-Chiêu Hoàng-Hậu. Bà trở thành Chính Phu Nhân. Bà sanh ra chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1619-1687) bà là người công dung ngôn hạnh vẹn toàn nên rất được Chúa sủng ái cũng như được mọi người trong phủ kính yêu. Bà mất năm Tân Sửu (1661), lăng bà tại G̣ Cốc Hùng, núi Chiêm Sơn, Quảng Nam

 

        Ca dao là di sản văn hóa, văn chương bác học của dân tộc Việt Nam là những câu hát b́nh dân, thông thường trong sinh hoạt xă hội .Được truyền tụng từ đời nầy sang đời khác, ca dao mang mọi h́nh thái khác nhau theo thời gian, nói lên t́nh yêu của tuổi xuân nam nữ, trên cánh đồng lúa với trưa hè trong tiếng ve sầu bên cây phượng vĩ, hay nỗi buồn chia tay của tuổi học tṛ, diễn tả mọi sinh hoạt đời sống, với thiết tha hay tiếng thở dài v́ tuyệt vọng, nói lên ḷng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, cảnh tan thương bất măn hay ḷng hào hùng trong đấu tranh dành lại độc lập...Mỗi địa phương có những câu ca dao khác nhau,

 

        Người Quảng Nam tiếp xúc văn minh ngoại quốc, từ thế kỷ thứ 17.Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời, ngược lại Tây Phương có tài về khoa học kỷ nghệ, bởi thế không có ǵ tuyệt đối với việc tiếp xúc học hỏi của người dân Quảng Nam, Tổ tiên khi xưa đặt chân đến nhận vùng đất Chiêm Thành với bản tính can đảm lúc đến lập nghiệp trong vùng đất mới khai phá. thích canh tân tiến bộ trong t́nh thần dân chủ, cởi mở thích phát biểu ư kiến và phải có lư luận rơ ràng. Ai nói điều ǵ mơ hồ không có dẫn chứng đúng thường bị căi lại ngay. Căi trở nên truyền thống của người Quảng Nam, bởi thế ca dao có nói về cá tính trong sinh hoạt xă hội

                       

Quảng Nam hay căi, Quảng Ngải hay lo                     

B́nh Định nằm co, Thưà Thiên ăn hết

  

        Đời sống gia đ́nh, t́nh yêu mộc mạc của vợ hiền đảm đang việc nhà, dành th́ giờ cho chồng yên chí học hành đỗ đạt ra giúp đời, hay hai người chỉ mới yêu nhau nhưng chờ ngày bái tổ vinh qui .Ngày xưa các th́ sinh Quảng Nam, phải vượt đèo Ải Vân ra Huế thi trong các kỳ thi do triều đ́nh tổ chức, vác lều chỏng ứng thí nhà giàu đi ngựa, nghèo th́ đi bộ có người gánh phụ hành trang đường xa cách trở .Các chàng trai xứ Quảng ra Huế thi, thấy nàng gái Huế mặc áo dài, mái tóc thề tung bay trong gió nhẹ của sông Hương, đi qua cầu Trường Tiền sáu vày mười hai nhịp. khác với h́nh ảnh người yêu hay vợ hiền ở Quê nhà có thể với cái nh́n ngẩn ngơ

                         

Học tṛ trong Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế chân đi không đành.

 

        Sau nầy trai Quảng Nam ra Huế học Đại học không c̣n ngẩn ngơ, đến nổi đi không đành..như các cụ ngày xưa, học xong Đại học đi làm việc khắp nơi, không giới hạn làm quan ở triều đ́nh Huế. Những thành phố Hội An, Đà Nẳng,Tam Kỳ trở nên sầm uất, các nàng gái xứ Quảng cũng xinh đẹp, văn minh dịu dàng.. nên các chàng  sửa lại chữ  “thấy “ ra  chữ  ”mấy” . T́nh yêu ḷng thủy chung thường nhắc đến, dù học hành đỗ đạt làm quan, đừng quên t́nh yêu thuở ban đầu lưu luyến ấy.

 

Sáng trăng trải chiếu hai hàng

Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ

Quay tơ vẫn giữ mối tơ,

Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh.

                                     

Non non, nước khơi chừng

Ái ân đôi chữ xin đừng quên nhau

T́nh sâu mong trả nghĩa đền

Đừng vui chốn khác mà quên chốn nầy 

 

Vợ chồng quê ngày ngày bận rộn việc ruộng đồng, ban đêm c̣n tranh thủ thời gian làm thêm việc nhà, không mong ước ǵ cao xa ngoài ḷng chung thủy 

                       

Đêm hè gió mát, trăng thanh                

Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp chừng                  

Lạt chẳng mỏng sao thừng được tốt                  

Duyên đôi ta đă trót cùng nhau                    

Trăm năm thề những bạc đầu                      

Chớ ham phú quí đi cầu trăng hoa.

 

        T́nh yêu khép kín trong lễ giáo gia đ́nh „t́nh trong như đă, mặt ngoài c̣n e” nhưng t́nh yêu của phố Hội An cũng lăng mạn dành cho thi nhân và khách văng lai

 

                       

Ai đi phố Hội, Chùa Cầu                  

Để thương , để nhớ, để sầu cho ai,               

Để sầu cho khách văng lai,                     

Để thương để nhớ cho ai chịu sầu        

               

 

Hội An  nơi hẹn ḥ của các cặp nhân t́nh trong các mùa làm việc chung với nhau

                       

Thương nhau chớ quá e dè,                   

Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be.                  

Thiếp nói th́ chàng phải nghe                       

Thức khuya, dậy sớm, làm chè 10 ngày 12 xu           

Măn mùa chè, nệm cuốn sàn treo                 

Ta về, bỏ bạn, cheo leo một ḿnh,                

Bạn ơi, bạn chớ phiền t́nh,                    

Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau                  

Lạy trời, mưa xuống cho mau                       

Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp nhau

                                                     

T́nh yêu có thể vượt không gian và thời gian không c̣n ngăn sông cách núi dù ở đâu cũng có thể t́m đến, ngày xưa thiếu phương tiện giao thông, phải vượt núi đèo t́m đến với người  yêu trong đời sống mộc mạc của hoa đồng cỏ nội, hay trên đồi sim tím

 

                       

Đói ḷng ăn nửa trái sim                 

Uống lưng bát nước đi t́m người yêu (thương)

 

Hay

 

Thương nhau, mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua 

 

Khoảng cách  không thể so sánh với t́nh yêu, đường xa cách trở có thể thâu gần lại

                       

Rằng xa: cửa ngơ cũng xa                      

Rằng gần : Vĩnh-Điện, La-Qua cũng gần

 

        Thân phận con gái đi lấy chồng, nhưng h́nh ảnh sinh hoạt trong gia đ́nh không thể quên dù được sống hạnh phúc bên chồng, nhưng đôi lúc chạnh ḷng nhớ thương cha mẹ

 

                       

Chiều chiều ra đúng ngỏ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Chiều chiều mây phủ ải vân

Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn

 

Hay

                       

Chiều chiều mây phủ Sơn trà

Ḷng ta thương bạn, nước mắt và  lộn cơm

                                                     

Người Quảng Nam tính t́nh cương trực, nói thẳng, không giấu diếm nỗi ḷng, trong t́nh yêu  gia đ́nh, xă hội đạo làm người luôn được tuyệt đối tôn trọng

                       

Đối với ai ơn trọng, nghĩa dày                      

Một hột cơm cũng nhớ                    

Một gáo nước đầy vẫn chưa quên

 

Người chồng v́ bổn phận đi xa, vợ hiền lo gánh vác việc nhà nuôi con phụng dưỡng mẹ già, giữ ḷng thủy chung, mong ước ngày đoàn tụ dưới mái ấn gia đ́nh để con có mẹ có cha, Truyền thống đàn bà Việt Nam hy sinh giúp chồng mong làm nên sự nghiệp, vợ khôn ngoan làm quan cho chồng tiễn đưa chồng ra đi không phải là những nụ hôn nồng nàn, nhưng là lời nhắc nhủ 

         

Anh đi em ở lại nhà                  

Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ                 

Lầm than bao quản muối dưa                      

Anh đi ! anh liệu chen chân với đời

         

Hoặc

                       

Đứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông                    

Thấy nước xanh như tàu lá,                  

Đứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn                    

Thấy phố xá nghinh ngang                    

Kể từ ngày Tây lại đất Hàn,                   

Đào sông cù nhĩ , t́m vàng Bông miêu.                       

Dặn tấm ḷng , ai dỗ cũng đừng xiêu,                  

Ở nuôi Thầy Mẹ, sớm chiều cũng có anh

 

        Các địa danh Tư Sé Ḥn Kẻm, Đá Dừng nhưng chúng ta chưa một lần bước chân đến đó. Xem lại bản đồ Quảng Nam địa danh trên nằm trên sông Thu bồn phát xuất từ trên nguồn chảy qua giữa quận Quế Sơn và Đại Lộc, nhưng thưở xa xư a có thể người ta đến đó làm việc, trên sông dưới nước với cảnh khỉ ho c̣ gáy, nhớ về Mẹ là nhớ về cuội nguồn dân tộc

                       

Ngó lên Ḥn-Kẻm, Đá-Dừng ,                

Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

 

        Công ơn sinh thành của cha mẹ cao như trời, rộng như biển, con cái có ḷng hiếu thảo đó là nguồn an ủi đối với cha-mẹ lúc tuổi già. Nhắc lại t́nh mẫu tử cao qúy, qua kinh nghiệm cuộc sống nhắn gởi ai c̣n cha mẹ nên giử ḷng hiếu thảo.

                       

Lên non mới biết non cao                       

Nuôi con mới biết công lao Mẫu từ

                       

Công cha như núi Thái Sơn                   

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 

        Người mẹ hiền thường răng dạy con gái qua ca dao như thứ luân lư thực hành

                       

Ḿnh là con gái trong nhà                      

H́nh dung yểu điệu nết na dịu dàng                    

Khi ăn khi nói chững chàng                   

Khi ngồi khi đứng bỉ bàng dung nghi

 

         Sống với quê nhà bên lũy tre xanh, trên con đường làng bé nhỏ, hay phải đi xa một phương trời nào, khó có thể quên được quê hương xứ Quảng, kỷ niệm gắn bó cuộc đời, sau năm 1975 làng sóng bỏ nước ra đi t́m tự do, được định cư khắp nơi trên Thế giới, hội nhập vào văn minh xứ người, nhưng nỗi ḷng người ra đi viễn xứ vẫn canh cánh bên ḷng nhớ thương về quê Mẹ, mỗi địa phương mang một đặc thù riêng

               

Ai đi cách trở sơn khê                      

Nhớ tô Ḿ Quảng, t́nh quê mặn mồng

                       

Hội An đất hẹp, người đông           

Nhân t́nh thuần hậu là bông đủ màu

                       

Hội An bán gấm, bán điều                      

Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành

                       

Chiêm Sơn,, là lụa mỹ miều                    

Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ

                       

Chồng em là lái buôn tiêu                       

Đi lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng

               

        Dăy trường sơn chạy dọc theo bờ bể từ Nam Ô cho tới Chu Lai phần lớn dân số sống về nông nghiệp và ngư phủ cùng nhau phát triển kinh tế. Các quận trên nguồn như Tiên Phước, Quế Sơn...muốn ăn cá phải mua cá hấp chín, bán vào các buổi chợ sớm, các loại mắn người miền biển gánh lên nguồn đổi lấy ngũ cốc, tùy theo các mùa, nhưng loại cá chuồn, người ta thường làm thính hay hấp, cá chuồn nấu với mít non một đặc sản ngon tuyệt vời

      

Ai về nhắn với ngọn nguồn

Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên

               

         Trái ḅn bon bé nhỏ nhưng có hương vị ngọt, ngày xưa khi vua Gia Long hái ăn khi vượt núi băng ngàn để chống lại nhà Tây Sơn. Thống nhất Sơn Hà 1802. đặt tên trái ḅn bon là „Nam-Trân.“ trái măng cụt tại miền Nam tên là „Giáng-Châu“, để nhớ lại lúc thiếu lương thực nhà vua và quân lính thường hái  các trái cây trên

 

Trái ḅn bon trong tṛn ngoài méo

Trái thầu dầu trong héo ngoài tươi

Em thương anh ít nói ít cười

Ôm duyên ngồi đợi chím mười con trăng

 

Vùng biển cát trắng Nam Ô nằm dưới chân đèo Ải Vân, sản xuất nước mắn ngon không thua ǵ Phú-Quốc hay Phan-Thiết. Chúng ta ít nhất một lần ăn với dưa cải muối với nước mắn Nam Ô

   

Nói cho lắm cũng nước mắn dưa cải

Nói cho phải cũng dưa cải nước mắn

 

Tường Linh có những vần thơ đi vào văn học

 

Đêm Đà Nẵng vọng về cơn gió biển

Bún chợ Chùa thương nước mắn Nam Ô

 

         Quận Ḥa Vang gíap Đà Nẳng có bến xe Đ̣ Xu, ngả ba Ḥa Cầm quận lỵ tại Cẩm Lệ nơi sản xuất nem, tôi không hút thuốc nhưng nghe người ta thường nói nơi nầy nổi tiếng một vùng trồng thuốc thơm ngon, gọi là thuốc lá Cẩm Lệ các vùng Thanh Qúit cũng trồng cau, thuốc lá được các ghe thương gia tới mua bán

                       

Tơ cau thuốc lá đầy ghe

Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần.

 

        Hội An làm bánh tổ một đặc sản, vùng Tiên Đỏa từ Hương An trở vào cho đến quận Thăng B́nh vùng cát trắng phau thích hợp cho việc trồng khoai lan .

                       

Nem chả Ḥa Vang                  

Bánh tổ Hội An                 

Khoai lan Tiên Đỏa                  

Thơm rượu Tam Kỳ

 

        Quận Trà My tại Quảng Nam trồng Quế vỏ nhiều dầu, phẩm chất cao đặc sản nơi nổi tiếng các nơi khác trồng nhưng có thể xa khí hậu phong thổ chất uượng kém, bởi vậy khó nơi nào sánh bằng,

               

Quế Trà My thứ cay thứ ngọt                

Bởi anh thợ rừng mới lọt tay anh                

Phàn du, bạch chỉ rành rành                 

Cân tiểu ly mới xứng, ngọc liên thành mới cân

 

Quế  sản phẩn giá trị như Yến ở cù Lao Chàm nổi tiếng thơm ngon và đắc tiền

                       

Đầy hàng tháng ngát mùi hương                 

Sửa quế người xem khá rộng ràng                      

Số chở hàng năm khôn kể xiết,                     

Bán xong lại đến lấy thêm hàng..

 

Lời ru ngọt ngào của mẹ hiền, tiếng ru à ời ngọt ngào âm thanh kéo dài, trong những trưa hè nắng gắt, ru cho con giấc ngủ b́nh yên liên khúc ca dao trữ t́nh như lời nhắn nhủ, lớn lên phải khôn ngoan vào đời. Nhờ truyền khẩu nên các bà thuộc ḷng các câu ca dao kết hợp lại thành liên khúc ru con

 

Ru con con thét cho muồi

Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu

Mua vôi chợ Quán chợ Cầu

Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh

(Tùy theo mỗi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )

 

Công cha nghĩa mẹ chớ quên

Ơn vua lộc nước mong đền con ơi

Như vầy mới gọi rằng trai

Trên lo nghĩa Chúa, dưới mài Thảo thân.

               

Con mèo trèo lên cây cau

Hỏi thăm chú chuộc đi đâu vắng nhà

Chú chuộc đi chợ đường xa

Mua mắn mua muối giổ cha chú mèo

 

        Các nàng được ví von như tấm lụa đào đẹp, như những giọt mưa sa trong mỗi dạo xuân về, con gái dịu dàng tha thước, nhưng thân phận so sánh như 12 bến nước trong nhờ đục chịu, t́nh yêu duyên nợ cột vào với nhau, t́nh yêu chỉ là giấc mơ cho phương trời viễn mộng? Ngày xưa chịu ảnh hưởng gia đ́nh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” nhưng có câu „ ép dầu ép mở ai nở ép duyên”.

                       

Thân em như tấm lụa đào                     

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?                     

Thân em như hạt mưa rào                    

Hạt sa băi cát, hạt vào vườn hoa                 

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đồng nội, hạt sa vũng lầy. 

 

        Quảng Nam có những trang sử oai hùng và bi đát, qua các cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp.T́nh thần yêu nước hy sinh của sĩ phu và những người dân quê, họ sống trên cánh đồng lúa bờ dâu, hiền từ chất phát không hận thù. Dưới thời Pháp thuộc bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mọi người cùng nắm tay nhau lên đường đấu tranh. Phong trào đấu tranh xin xâu giảm thuế phát xuất tại Quảng Nam đánh dấu một kỷ nguyên mới dưới thời nô lệ.

 

                       

Đất Quảng Nam từ năm bính ngọ (1906)                  

Xâu ngũ nhật, công sưu công ích, đường trường làm tột núi cao                       

Thuế bách phân gia ngũ gia tam, đủ ngón vét từng xu nhỏ                  

Măi tới xuân nầy (1908) cực đà hết chỗ,                    

Ra tết trời làm tai biến, hạn hán tiêu khô                  

Nhiều nơi đất bỏ hoang dân t́nh đói khổ..

 

Làng sóng đấu tranh nổi lên toàn tỉnh Quảng Nam sau đó kéo dài các tỉnh miền Trung

 

Đời ông cho tới đời cha

Đời nào cực khổ như ta đời nầy

Ngoài đồng cắm cọc giăng giây

Vườn nhà đóng thuế, vợ gầy con khô.

Đời xưa thuế một quan năm

Đời nay thuế lại hai đồng bốn giác

Con tay bồng tay dắt

Vợ tay đỡ tay mang

Vui chi mà hát mà mừng

Mua ngày mà ở cầm chừng với Tây

Từ ngày Tây chiếm Đế đô

Xâu cao thuế nặng , biết  chừng mô hởi trời !

C̣n lo một nỗi khổ đời

Quan trên ỷ thế nặng lời hiếp dân. 

 

                                       ***

 

Kể từ Đồn Nhất kể vô

Liên Chiểu, Thủy Tú, Nam Ô, xuống Hàn

Hà Thân, Quán Cái, Mân Quang

Miếu Bông, Cẩm Lệ là đàng vô ra

Ngó lên chợ Tổng bao xa

Bước qua Phú Thượng, Đại La, Cồn Dầu

Cẩm Sa, Chợ Vải, Câu Lâu

Ngó lên đường cá, thấy cầu Giáp năm

Bây chừ, thiếp viếng, chàng thăm,

Ở cho trọn nghĩa, cắn tăm nằm chờ.

 

Thời tiết các năm ấy hạn hán bị mất mùa, thu hoạch ngũ cốc chưa đủ sống, nhưng bọn sai nha thâu thuế lấy xâu không nương tay, chỉ muốn thu tiền cho đầy túi dâng cho bọn thực dân hưởng thụ, bắt dân phu đi làm đường đào mỏ.. sống chết mặc bay. Người dân Quảng Nam không chịu đựng cảnh người bóc lột người của thời  nô lệ, từ đó họ đă biến đau thương thành hành động

 

Tháng giêng cho chí tháng hai

Con dân áo rách quần xài đi ra

Mười lăm cho đến ông già

Cơm đùm, ruột tượng, xuống ṭa lănh ban

Chức sắc cho chí diên quan

Làm đơn  kêu gọi các làng xin xâu

 

                        oOo

 

Kể từ cầu Ông Bộ kể ra

Cây Trâm, Trà Lư, bước qua Bà Bầu

Tam Kỳ, Chợ Vạn, Thầu Đâu,

Ngó qua  đường cái, thấy lầu ông tây

Chiên Đàn, Chợ mớI  gần đây,

Kế Xuyên mua bán, đông tây rộn ràng

Hà lam gần sát Phủ Đàng,

Phía ngoài băi cát, Hương an nằm dài,

Cầu cho gái sắc, trai tài.

Chung ḷng xây dựng, tương lai huy hoàng

 

Thực dân Pháp và tay sai đàn áp các cuộc biểu t́nh xin xâu kháng thuế, nhiều người bị kết án tử h́nh, trong đó Ông ích Đường cháu nội Ông ích Kiêm bị bắt tử h́nh ở Túy loan. Ông trùm Thuyết bị chém v́ hô những tiếng lớn lên án Trần Tuệ chuyên ăn hối lộ làm cho đề đốc Trần Tuệ là tay sai đắc lực với Pháp sợ qúa hộc máu mà chết .

 

Tiếng hô uất hận của dân tộc lầm than, đói khổ bị đè nén lâu ngày,tiếng hét được mọi người hưởng ứng để đánh đổ bạo quyền và tay sai. Nên ca dao và vè đấu tranh lưu truyền măi măi.

                       

Cậu Đường mười tám tuổi đầu                    

Dẫn dân công ích xin xâu dưới ṭa                              

                       

Bắt anh trùm Thuyết dẫn ra,                 

Dẫn ra dân tưởng quan tha cho về                      

Chém anh trùm Thuyết gớm ghê                 

Gươm đao âm phủ ba bốn bề cách xa

                                              

Các Phong trào chống thực dân dù bị đánh dẹp, không tránh khỏi cảnh bất công trả thù gông xuyền tù đày bắt bớ, chém đầu, máu của dân tộc Việt Nam đổ ra khá nhiều, nói riêng tại Quảng Nam Phong trào trên làm cho chính sách của bọn thực dân phải chùn bước. Phan Châu Trinh (1872 -1925) Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Nguyễn Thành (1863-1911) đều bị bắt cùng nhiều người khác đày ra Côn đảo. Trần Quư Cáp (1870-1908) .

 

        Ca dao mang chúng ta trở về nơi xa mù quá khứ, hoài nhớ lại kỷ niệm của tuổi thơ  được nghe tiếng hát mẹ hiền..Kỷ niệm như đang len lỏi vào hồn, như khởi dậy nỗi niềm xa xứ , nhắc nhở chúng ta đừng quên cội nguồn. đừng quên bổn phận với Quê hương bên kia bờ Đại dương 

                                                                   

Nguyễn Quư Đại

Munich