Vưt Bin Đến Laem Sing,

Thái Lan

Phan Ni Tn

 



Ngày 25 tháng 11 năm 1979 cách đây 37 năm là một thời điểm quan trọng, một biến cố lạ lùng sôi nổi đă ăn ruồng vào tâm trí tôi muôn thuở không quên. Nếu không có phép lạ xẩy ra th́ cái ngày định mệnh này đă buộc tôi phải ra đầu thú với nhà cầm quyền Việt Cộng tại Sài G̣n để có cơm ăn, có nhà ở, dù đó là cơm tù và là nhà tù.

Như đă nói, ngày 25-11-79 mới thực sự là ngày đổi đời của tôi. Má tôi, người đàn bà suốt đời tận tụy v́ chồng con, từ trên Đà Lạt bán nhà xuống giao 5 cây vàng cho bà thím đưa tôi đi vượt biên.


Tờ mờ sáng ngày 25, tôi và người bà con tên Phước - cựu Thiếu úy Biệt Động Quân Chung Sự Vụ, cải tạo 5 năm tại Phú Quốc, đi chui đường Rạch Giá cả thảy tám lần không lọt - đón Taxi xuống bến xe Xa Cảng Miền Tây mua vé đi Rạch Giá vượt biên. Bến xe Xa Cảng Miền Tây 4 giờ sáng đă ồn ào náo nhiệt. Nhiều người chịu khó ngủ qua đêm trước quầy bán vé, chầu chực tới mờ sáng thức dậy chen lấn xếp hàng, giành nhau mua vé. Bến xe mà y như buổi chợ. Chen giữa tiếng người huyên náo là những tiếng động cơ xe hai bánh và xe xích lô máy. Tiếng c̣i xe ngược xuôi vô trật tự ré lên inh ỏi, át cả những tiếng người gọi nhau ơi ới, những tiếng khóc của trẻ con, những tiếng chửi thề ngọt lịm, những tiếng rao hàng lanh lảnh.


Bây giờ không biết đường về Lục Tỉnh ra sao chớ hồi đó đường Sài G̣n - Rạch Giá lở lói, lởm chởm đầy những ổ gà. Bảy giờ sáng xe đ̣ mới chuyển bánh. Xe đă quá tải, dọc đường c̣n rước thêm khách. Những chiếc ghế “súp” (ghế phụ) được tận dụng tối đa. Chuyến xe sáng xuôi Nam như con ngựa sắt già nua, ốm đói, xục xịch, lắc lư đưa tôi về miệt Phú Lâm, chạy qua B́nh Chánh, qua cầu Bến Lức, qua phà Mỹ Thuận về Bắc Vàm Cống, qua ngă ba lộ tẻ theo con đường số 8 vào thị xă Rạch Giá. Xe vừa tới bến trời cũng vừa xế chiều. Hồi c̣n đi học có dịp về miền Tây ḷng tôi như trẻ nhỏ lúc nào cũng nôn nao, háo hức, khác với lần này - âm thầm, lặng lẽ, băn khoăn, lo lắng - tôi đi như rong rêu, như đám lục b́nh trôi ra biển hay giạt vào nơi không bến không bờ.

 

Nghe nói nhiều người xuống Lục Tỉnh đi chui phải ngụy trang sao cho giống với người địa phương hầu che mắt công an ŕnh rập bắt bớ. Riêng tôi và Phước, người bà con vốn đă phong trần từ ḷ cải tạo có tới lui xuôi ngược cả buổi trong chợ cũng chẳng ma nào thèm ngó. Ngồi ăn cơm chiều ở một quán cơm lộ thiên tôi lặng lẽ quan sát thấy chợ Rạch Giá quả là sầm uất . Chợ búa về chiều kẻ buôn người bán vẫn vui vẻ tấp nập. Bên kia đường là rạp hát Châu Văn đang diễn tuồng cải lương ǵ mà người đông đen.


Khoảng 8 giờ tối người dẫn đường tên Nỏn quen với Phước từ trước tới đưa chúng tôi đi. Nhưng v́ chưa tới giờ hẹn cũng như để tránh tai mắt những kẻ ṭ ṃ, chúng tôi đi lanh quanh vô chợ nhà lồng rồi rảo bước ngược ra hướng cầu đúc. Đứng trên cầu ngó xuống ḍng nước đen thẫm lấp loáng những vệt ánh sáng hắt xuống từ một ngọn đèn đường tự nhiên ḷng cảm thấy buồn hiu. Sống đời có những nỗi buồn thâm hậu mà thời gian có trăm năm vẫn chẳng phôi pha, cũng như có những nỗi buồn dẫu phớt nhẹ thôi cũng đủ làm đời lay động, nhưng cũng có những nỗi buồn chẳng ra ǵ mà cũng chẳng thắm thía chi như cái buồn tôi đang mang trong ḷng: bỏ xứ mà đi.


Đúng 9 giờ 30 tối chúng tôi bắt đầu lên đường hướng ra biển. V́ sống bằng nghề nông quen đường đi nước bước nên Nỏn đi rất nhanh. Lúc th́ băng đồng vượt suối, lúc th́ xuyên kinh lội rạch làm hai thằng tôi lúp xúp bám theo muốn hộc x́ dầu. May nhờ có ánh trăng lờ mờ soi đường cũng đỡ khổ cho tầm nh́n. Tôi nhớ đêm đó có đi ngang qua một ngôi chùa tịch mịch, hắt ra một chút ánh đèn vàng ệch lẫn trong tiếng kinh kệ trầm buồn như thầm đón người mới tới mà cũng ngầm tiễn bước chân đi. Tôi tin rằng đi lánh nạn mà gặp chùa chiền, thánh thất hay nhà thờ chẳng khác nào có trời Phật, thần thánh theo sau độ tŕ. Khi chúng tôi tới điểm tập trung là một cái cḥi lá th́ đă có khoảng chục người gồm đàn ông đàn bà và trẻ con tới trước rồi. Để pḥng du kích hay công an ruồng bố bất thần, tôi và Phước ṃ ra gốc cây me cách cḥi khoảng 20 thước nằm ngủ. Nhưng muỗi đông như cám văi tấn công tới tấp khiến chúng tôi không tài nào ngủ được. Đêm xuống sâu. Gió rất thoảng. Nghe sóng vỗ dưới băi ḷng nhớ nhà vô hạn.


Sau hai ngày nằm chờ ghe đến nửa đêm th́ có người xách đuốc tới đưa chúng tôi xuống băi. Cái cảnh đêm hôm khuya khoắt ḍ dẫm theo ánh đuốc chập chờn lần bước xuống băi bùn lội biển ra ghe làm sao mà quên được. Từ điểm xuất phát xuống tới băi hầu như không có lối đi. Dưới ánh trăng mờ ảo, chúng tôi ráng bám theo người dẫn đường, đạp bừa lên các chướng ngại vật, vạch đám lá phi lao già cỗi, cao quá đầu người lần ṃ từng bước đi tới điểm hẹn. Sau khi đốc thúc mọi người  lên hai ghe-nhỏ-giọt xong, tài công hối hả dong thẳng ra ghe lớn. Từ ghe nhỏ ra ghe lớn khoảng một hải lư. Chiếc ghe mang bản số KG 146 dài 7m, ngang 1.5m chở 42 thuyền nhân như chiếc lá tre giữa mênh mông biển cả sóng dồi.

 

Để bảo đảm an toàn cũng như tránh tai mắt công an biên pḥng, tất cả mọi người đều dồn xuống ḷng ghe. Giữa tiếng chân người khua động, ồn ào, chen lấn, xô đẩy  nhau t́m chỗ ngồi, tuyệt nhiên không có tiếng la hét, cự nự, chửi rủa nào cất lên. Gần 40 nhân mạng nằm ngồi chen chúc trong ḷng ghe chật chội tối om, không ánh sáng, không cả một tiếng động ngoài tiếng máy ghe ŕ rầm rẽ sóng. Tôi nằm cong người theo lườn ghe, im lặng cảm nhận vị mặn của nước biển thấm vào người, như thủy  triều, lại rút tất cả những hệ lụy của cuộc sống ra khỏi người tôi.

 

Đêm sâu hơn, dài hơn, không khí ngột ngạt trong ḷng ghe như đè nặng trên những con người đang chạy trốn hiểm họa Cộng sản. Đúng như nhà văn Victor Hugo nói: "Chủ nghĩa Cộng sản là giấc mơ của vài người, nhưng là cơn ác mộng của nhân loại".  

 

Rạng sáng ngày hôm sau ghe ra tới hải phận quốc tế, chủ ghe mới mở nắp hầm cho ánh sáng và không khí tràn xuống ḷng ghe. Trong ḷng ghe lúc đó là cuộc tập trung một đám đông hỗn độn, bèo nhèo, mệt mỏi, loi ngoi, ướt như chuột lột. Ngồi gần nắp hầm, lợi dụng không ai để ư, tôi ngoi đầu lên nh́n quanh rồi tót hẳn lên sàn ghe. Vài anh thanh niên thấy vậy cũng lóp nhóp lên theo.

 

Ngày đang hé cửa. Trên bầu trời đầy nắng và gió. Tôi nh́n lên những đám mây bay trên cao, hít thở mùi vị mặn của biển và nao nao thưởng thức sự tự do của ḿnh. Trên đường vượt biển, thỉnh thoảng chúng tôi nh́n thấy tàu chở hàng phía đường chân trời. Giữa đại dương trời biển mênh mông, chiếc ghe của chúng tôi hầu như vô h́nh.

 

Đến chiều trời bắt đầu mưa to, gió mạnh. Biển khơi trùng trùng lộng gió. Từng đợt sóng khổng lồ, đen kịn, rùng rùng sôi sục, uốn lượn, thét gào, đẩy ghe của chúng tôi như chiếc lá tre, mong manh bên bờ sống chết; lúc th́ chơi vơi trên đầu ngọn sóng, lúc th́ tuột xuống thăm thẳm đáy sâu.  Một người chưa từng đi biển như tôi, đối diện với biển mới thấy thế giởi biển thật hùng nhưng man rợ và hăi hùng hơn sức tưởng tượng của con người

 

Để được an toàn, chủ ghe lại bắt chúng tôi trở xuống. Trong ḷng ghe hầu như không c̣n ai biết đói là ǵ. Giữa tiếng máy ghe ŕ rầm ngửa nghiêng lướt trong đêm tối đen như mực tôi nghe lâm râm những lời cầu nguyện.

 

Qua ngày thứ hai trời êm biển lặng, tôi và một số người lại lên sàn tàu ngồi hóng  gió, chuyện tṛ mới biết ghe đang hướng mũi về Thái Lan. Sau cơn băo, biển lại hiền lành như giải lụa mềm lung linh uốn lượn. Nắng trên cao đưa mây phiêu du về nơi cuối trời. Lúc đó tôi cảm thấy đời không c̣n là biển khổ như nhà Phật nói, mà biển trông thật huy hoàng, tráng lệ, biển như ngân nga trong vi vu gió biển và biển thở phập phồng.

 

Người và ghe đang bềnh bồng trong biển nước êm mơ chợt một tàu sắt lù lù trờ tới làm ai nấy đều giựt ḿnh sợ hăi. Nh́n lá cờ bay phầng phật trên cột bườm tôi biết đó là tàu đánh cá Thái Lan. Một tên ngư phủ Thái lực lưỡng, ḿnh trần trùng trục, nước da nâu sạm, vận sà-rông nhanh nhẹn quăng dây thừng kéo ghe chúng tôi áp sát lườn tàu. Sau đó thêm ba tên ngư phủ mặt mày hung tợn, cầm mă tấu nhảy xuống ghe bắt tất cả lên tàu sắt để họ lục soát. Chủ tàu Thái ra lệnh đưa đàn bà, con nít xuống khoang dưới, đàn ông th́ dồn vào một góc trên boong khiến ai nấy  đều hoang mang lo lắng không biết chúng có ư đồ ǵ. Nhưng sau khi cho chúng tôi ăn uống tắm rửa xong khoảng nửa giờ sau chủ tàu cho thả hết mọi người về ghe, lại tốt bụng cung cấp thực phẩm, nước uống cho ghe chạy đi. May mà chiếc hải bàn không bị đánh cắp. Hú vía.

 

Sau hai ngày đêm giông băo ghe vẫn nương theo sóng gió ngờm ngợp lướt nhanh. Lúc này tôi ở hẳn bên cạnh tài công phụ giúp xem hải bàn điều chỉnh phương hướng cho chính xác. Thật ra, hải bàn đi biển không khác ǵ lắm so với dịa bàn như hồi tôi học trong quân trường Thủ Đức. Lấy kinh nghiệm dùng la bàn đi địa h́nh tôi luôn luôn theo dơi và điều chỉnh độ sai số để hướng đến mục tiêu.

 

Đến chiều ngày thứ ba thấy hải âu xà xuống mũi ghe tài công mừng rỡ la lên cho biết chúng ta sắp đến đất liền rồi. Nói sắp đến đất liền nhưng ghe vẫn tiếp lục lướt sóng măi đến lúc trời chạng vạng tối mới thấy từ xa ánh đèn lấp lánh ở phía bờ.  

 

Trời lại mưa to, gió thổi mạnh. Biển lại điên cuồng gào thét, những làn sóng bạc đầu sùng sục sôi trào không ngừng phủ ập xuống chiếc ghe mong manh. Đêm  biển đen như mực chẳng c̣n trông thấy ǵ, chỉ c̣n cầu Trời khấn Phật. Mặc dù run rẩy v́ lạnh nhưng anh tài công vẫn gồng ḿnh vừa vuốt mặt vừa cầm chắc tay lái lướt trên con sóng bạc đầu hướng thẳng về phía đất liền.

 

Tờ mờ sáng ngày 1-12 -1979, sau 2 ngày 3 đêm vượt biển ghe mới tới được bờ, tài công cho ghe ủi đại vào một bến đá. Thấy ghe lạ cảnh sát Thái trên đồn vội chạy xuống, Sau khi kiểm tra, hầm hè, nạt nộ, cật vấn bằng tiếng Anh do tôi thông dịch xong mọi người mới được lên bờ. Viên cảnh sát cho biết tối hôm qua ngoài biển băo cấp 7 không có ghe đánh cá nào dám ra khơi vậy mà chúng tôi thoát chết cập vào được bến Laem Ngop này đúng là thần khẩn-na-la cứu. Th́ ra bến bờ tự do đầu tiên của 42 thuyền nhân chúng tôi là huyện Laem Ngop nằm trên phần đất phía Đông của tỉnh Trat, Thái Lan. 

 

Sau 2 tuần tạm trú ở Laem Ngop, chính quyền địa phương chuyển chúng tôi tới trại tỵ nạn Laem Sing, thuộc tỉnh Chantaburi khoảng nửa ngày đường xe. Laem Sing là một làng đánh cá nằm ven biển phía Nam Thái Lan. Lúc chúng tôi tới, trại đă có khoảng 1000 thuyền nhân, sống trong những căn nhà sàn làm bằng tre cất từ băi lên tới triền núi. Phía cầu tàu vẫn c̣n vài xác tàu bềnh bồng trên sóng .Trại cũng có hội trường, nhà thờ, chùa chiền, nhà tắm, ḷ thiêu, nghĩa địa. Riêng nhà vệ sinh được cất thành dẫy 7, 8 cái dưới mé biển, có cầu ván doi ra. Ban đại diện trại tự  điều hành mọi việc từ an ninh trật tự đến giáo dục, y tế, sinh hoạt trại... Phía ngoài trại là nhà cửa chợ búa của người địa phương buôn bán rất sầm uất. Hàng tuần chúng tôi được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cung cấp thức ăn gạo, muối, rau cải, đa số là cá hộp; hằng ngày có xe bồn chở nước tới. Đặc biệt mỗi thứ Tư hàng tuần cả trại đều xôn xao khi nghe loa phóng thanh báo: "Mục sư đă đến. Mục sư đă đến...". Đó là vị mục sư Tin Lành Doug Columb đem thư từ, chi phiếu, giấy tờ bảo lănh, quà cáp của thân nhân tỵ nạn gởi vào trại. Chính vị mục sư khả ái này cũng tự  quyên góp các vật dụng cá nhân cần thiết và thực phẩm hằng tuần đem vào trại phân phát cho đồng bào và truyền đạo cho các con chiên.

 

Trong thời gian ở trại tỵ nạn chờ đi tái định cư ở nước thứ ba, nhiều đợt thuyền nhân được chở vô trại cũng như họa hoằn lắm mới có ghe đâm thẳng vô trại. Hầu như ghe nào cũng tả tơi v́ hải tặc; người chết đưọc đưa thẳng tới ḷ thiêu, người sống sót th́ như xác không hồn. Phải nói nạn vượt biên bằng đường biển lẫn đường bộ là một cuộc đào thoát đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ năm 1975.

 

Ở trại Laem Sing được 4 tháng, tôi, Phước và một số đông được chuyển tới trại Lumpini, Bangkok chờ chuyến bay đi Canada. Ngày 17 tháng 4 năm 1980, từ phi trường Bankok, chúng tôi nôn nao lên chiếc Boeing 747. Chiếc phi  khổng lồ có  hai tầng, tầng trên dành riêng cho những người tỵ nạn chúng tôi, tầng dưới của hành khách. V́ đường bay xuyên đại dương mất gần 20 tiếng đồng hồ nên phi cơ  phải đáp xuống phi trường Nhật Bản lúc nửa đêm đổ thêm xăng rồi tiếp tục bay xuyên đêm. Tới rạng ngày hôm sau phi cơ mới đáp xuống phi trường Montreal, Canada, có xe buưt chở chúng tôi về một trại lính. Ở đó, mọi người lần lượt chia tay đi vào cuộc đời mới trên một đất nước dân chủ, thanh b́nh, nhân đạo và thịnh vượng.


Ngày nay trại tỵ nạn Laem Sing cũng như tất cả các trại tỵ nạn khác ở các nước Đông Nam Á không c̣n nữa. Trại đă đóng cửa như một trang lịch sử thuyền nhân Việt Nam đóng lại. Tất cả chỉ c̣n là kỷ niệm của tấn bi kịch thương đau mang tầm vóc nhân loại,; nó để lại trong ḷng thuyền nhân những cảm xúc bền lâu, những vết thương bất biến.

 

Phan Ni Tấn