Mt Thu Nga Hng Trên

Đi Thơ Luân Hoán

 

MH Hoài Linh Phương 

 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Đồi 25, đồi 30”, “địa h́nh”, “căn cứ”.

Vang rừng chồi xanh ngắt bước quân ca.

Dây tử thần… như tráng sĩ Kinh Kha

 Kiêu dũng lắm, đời chiến binh gian khổ

 Nung chí trai nơi thao trường nắng gió

 Quyết một ngày về nối dải non sông

 Đồi Mẹ Bồng Con ôm ấp trong ḷng

 Gươm súng khắc ghi lời thề son sắt…”

(Với người một thuở Cư-An - MHHLP)       (1)

 

Như một cơ duyên không tên gọi, thật t́nh cờ tôi gặp lại Luân Hoán trên trang Vuông Chiếu của anh cách đây khoảng ba năm, trong khi lang thang đi t́m địa chỉ một người làm thơ trên Blog.

Trước 1975, tôi chỉ là một cô bé con làm thơ t́nh học tṛ với đầy ắp mộng mơ, lăng đăng vu vơ bên ngoài khung cửa lớp. Nhưng đâu đó…bên cánh phượng vĩ ép khô cuối mùa, tôi cũng đă từng đọc thơ anh trên những tạp chí, nguyệt san văn học.. cùng với Mường Mán, Trần Hoài Thư, Cao Thoại Châu…

Nhưng người rồi xa, đời rồi qua….

Bao nhiêu năm xứ người, tôi ch́m trong một góc riêng lặng lẽ, với sách vở trở lại trường, lăng quên ḍng văn học Việt vẫn âm thầm chảy trên nghiệt ngă, nổi trôi của người ly xứ, mà Luân Hoán vẫn không nguôi thở những hơi thơ ấm áp, dạt dào trên Vuông Chiếu cùng bằng hữu.

Và tôi đă đến, ngồi cùng anh trên Vuông Chiếu đó, tưởng chừng như đă đậm t́nh thân, dù chưa lần gặp gỡ.. trong từng chiếc lá thu phai, giữa mùa đông đến sớm, hay xuân muộn, hạ vàng nắng đỏ đường vui…

Tôi gặp lại tôi qua “Hoàng Tiểu Thư”. Tôi ngậm ngùi tôi với “Thay Trả Lời”. Tôi ướt mắt miên man về một thời tổ quốc điêu linh “Ngao du cùng vũ khí”….

Như một tấm gương soi, tôi nh́n tôi trong đó….

Khi nhận lời viết cảm nghĩ về thơ anh, là lúc tôi vừa trải qua những cơn mộng dữ của thời gian buồn im nhất. Nhưng một chặng đời thơ anh của một Viêt Nam đau thương với súng đạn vô t́nh để quyết dành từng tấc đất cho lư tưởng tự do đă dỗ dành trái tim tôi đừng khóc nữa…

Theo chân Luân Hoán, ta hăy cùng nhau “Ngao du cùng vũ khí”, trên một chuyến tàu kư ức, nh́n lại một bến bờ tưởng đă ngh́n xa…

Xếp áo thư sinh, chàng tuổi trẻ lên đường theo tiếng goi của hồn thiêng sông núi. Những ngày tháng bắt đầu cho quân phong, quân kỷ, nhưng vẫn nghe phảng phất chút hương hoa của người ở lại:

 

“T́m đâu ra đươc tấm gương

Soi lại mái tóc đời thường vài giây

Hương ǵ vuốt rối ngón tay

T́nh em ủ ấm trong này c̣n thơm

(Đêm xuống tóc, NDCVK, trang 14)

 

Nắng gió quân trường Tăng Nhơn Phú vẫn nhẹ như mây khi người sinh viên sĩ quan có chút dí dỏm tự trào:

 “ Đồi Tăng Nhơn Phú trọc đầu

C̣n tên lính sữa lâu lâu nằm dài.”….

“ Đồi Tăng Nhơn Phú chiều vàng

Gió bay mặc gió, ḷng hoang mặc người”

(Đồi Tăng Nhơn Phú, NDCVK, trang 15)

 

Những băi tập, sân bắn, dây tử thần, dây tự tin, tụt Giả Sơn… vẫn không làm nao ḷng người lính chiến:

Góc ba mươi nhón lấy đà

Buông chân ăn nhịp tay tà tà rơi

Gió lồng khô giọt mồ hôi

Giả Sơn cũng chỉ tṛ chơi b́nh thường”

(Tụt Giả Sơn, NDCVK, trang 16)

 Và ngụy trang theo từng bước quân đi:

 “Khắp người cài giắt lá xanh

Làm cây di động tập hành quân xa”

(Ngụy trang, NDCVK, trang 17) 

 

Rồi đến giờ địa h́nh quan trọng, như một dấu mốc căn bản trên đường hành quân, nhưng hơi thơ lục bát của  Luân Hoán nghe ra vẫn có ǵ nghịch ngợm:

 

“Trước tiên thám thính địa h́nh

Thử chấm tọa độ xem ḿnh đứng đâu”

……………………………………………

“Thật khó học được hờn căm

Ghét người quả thật khó hơn thương người”

(Giờ địa h́nh, NDCVK, trang 18)

 

Chấp nhận lên đường, nhưng tác giả vẫn chưa yên, c̣n chút chạnh ḷng với kẻ thù cùng chung màu da, tiếng nói. Cái tâm của Luân Hoán vẫn ngun ngút t́nh người trong hơi thở Việt Nam. Anh đă chênh vênh theo những khúc t́nh ca gọi người về từ bên kia giới tuyến:

“Về đây nghe tiếng nhớ thương

Tiếng ḷng dân tộc, mở đường tự do..”

(Đi đầu thai, NDCVK, trang 125)

 

Tôi không nghĩ thơ anh phản chiến như anh hồn nhiên tự nhận khi không thể nào gửi bài đăng ở nguyệt san Chiến Sĩ Công Ḥa – tiếng nói của những người lính quốc gia chân chính. Mà hăy lắng ḷng nh́n thẳm sâu một Luân Hoán, đă đứng trên những bi thương khi cuộc chiến đă kết thúc với nỗi quặn đau của miền Nam bị bức tử, với tất cả hào hùng của một người cầm súng cho lư tưởng tự do qua hồi kư rời chan chứa yêu thương, quặn thắt về ngôi trường Mẹ đă hun đúc chí nam nhi:

“Trường Bộ Binh Thủ Đức thân yêu của tôi, hậu thân của trường Sĩ Quan Nam Định, ra đời năm 1951. Qua bao thăng trầm biến động của lịch sử, đă thật sự khép lại một trang đời anh dũng với gần 70 khóa, đào tạo hơn 55 ngàn sĩ quan trừ bị cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Là cựu sinh viên sĩ quan, đă biết đổ máu cho chính nghĩa, cho tự do, chúng tôi không dấu những tự hào của ḿnh. Chúng tôi vẫn là những người chiến thắng trong cuộc chiến bảo vệ t́nh người, bảo vệ nhân phẩm”

(Những ngày đầu quân và thời ở KBC:4100 – LH, Hồi Kư Rời)

 

Chín tháng quân trường rồi cũng trôi qua, cung kiếm tang bồng mười phương, tám hướng Nhưng nghe như tiếng thở dài quyến luyến về một nơi chốn đă rèn luyện chí trai:

“Hàng cây, con đường làm thinh

Gió không lên tiếng tiễn ḿnh buồn chưa?”

(Ngày ra trường, NDCVK, trang 26)

 

Đề tài trong sinh hoạt quân trường của Luân Hoán rất phong phú, đa dạng. Là một bức tranh phác họa toàn cảnh từ sân bắn, băi tập, đồi 25, đồi 30, ngụy trang, điạ h́nh, mặt trận giả, vượt śnh lầy, đến nếp sống sinh viên sĩ quan từ trực đại đội đến ngày phép rong chơi phố xá, quân phục đi phép, h́nh ảnh kỷ niệm với bạn hữu .v.v….

 

Rất chân t́nh, với những lời tâm sự đầy kiêu hănh, sau vài năm từ giă trường xưa:

“Viết bao nhiêu cũng không vừa

Một đời giang nắng dầm mưa quân trường

Bốn ngàn một trăm (4100) muôn năm

Ít ra là ở trong ḷng của tôi”

(Vài năm sau, NDCVK, trang 26)

 

Từ chiến tuyến xa xôi, hồn vẫn hướng về thành đô vào ngày 19 tháng 06. Nơi ấy, trong đoàn hùng binh của Trường Bộ Binh Thủ Đức, chân anh đă từng nhịp bước bên bạn bè vang khúc hùng ca, mừng Ngày Quân Lưc Việt Nam Cộng Ḥa  rạng rỡ núi sông.

“Muốn bắn vài tràng thay pháo nổ

Nhưng thôi pháo đă nổ trong ḷng”

(Ngày Quân Lực 1969, NDCVK, trang 25)

         

Tiếng ḷng của một người thơ cầm súng nhẹ như sương, hiền như lá, nhưng đong đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ Việt Nam. “Thơ bỗng thay ḿnh chào núi sông”.

Bước chân quân hành của anh đă đi qua những điạ danh của Vùng I Chiến Thuật và tham dự những trận đánh ở Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Nghĩa Hành, Nghĩa Hưng, Đức Phụng, Đức Hải, Núi Tṛn, Núi Ngang, Mộ Đức, Trà Bồng, Quảng Tín,Văn Bâng, B́nh Đê, An Mô, Lâm Lộc, Sơn Kim, Phú Sơn….

Tôi chợt nghe ḿnh lặng đi giây lát… Bởi những câu thơ dễ thương nhưng pha lẫn xót xa của một người con gái Saigon mang tên Ư Quân  gửi về giày saut, áo trận, đóng quân trên miền đất Quảng Tín bé nhỏ, hoang vu một thời nào… vẫn c̣n đầy trong kư ức…

 Em bé nhỏ dưới giày saut anh bước

Đường anh đi thương biết mấy cho vừa?

Mai anh về, trời Quảng Tín có mưa?

Xin hăy nhớ lệ buồn em nhỏ xuống

(thơ Ư Quân)

 

Trên đường di quân, trái tim người lính trẻ cũng đă một thoáng xôn xao, như chút ngọt ngào tạm quên đoạn đường chiến binh gian khổ:

“Nếu mà không bận hành quân

Tôi đây quyết rủ em cùng ngồi chơi

Kể em nghe chuyện trên trời

Dạy em biết chuyện hai người yêu nhau

Vườn nhà em có sẵn cau

Tôi nhờ chú lính mua trầu về ngay”

………

Má em hồng như trái đào

Hương mưa, hương nắng trộn vào hương môi

Hương em cộng với hương tôi

Thành hương trời đất, hương người biết yêu”

(Thôn nữ Mộ Đức, NDCVK, trang 87)

 

 

Chất lăng mạn đă bay cao hơn khi từ chiến trường nhận thư Xuân của người em gái hậu phương c̣n vương màu mực tím: 

 

“Thư em từng chữ bọc nhung

Từng câu bọc lụa, khiêm cung thật thà

Ta là “ lính trận miền xa”

Nhưng hồn đang quấn hiên nhà của em.

Chỉ nh́n không dám đọc tên

Đă vang từng tiếng nhịp tim nồng nàn

Đêm nay chắc được mơ màng

Ngay trong phiên gác rừng hoang sao trời

Tên em thật, giả cũng vui

T́nh em giả, thật cũng bùi ngùi thương

Tạ t́nh em gái hậu phương

Cho ta vài phút chợt thương chính ḿnh”

 

(Thư Xuân em gái hậu phương, NDCVK, trang 173)

 

Như một lời khẳng định, người lính Viêt Nam Cộng Ḥa trong nhiệm vụ bảo quốc, an dân, chỉ giữ lại chút hương thơm nhẹ nhàng sương khói.

Tôi không là kẻ qua đường

Là người đi giữ bốn phương quê nhà

Gặp em chỉ dám ngó qua

Để vừa đủ nhớ hương xa có gần”

(Hạnh ngộ t́nh cờ, NDCVK, trang 355)

 

Lục Bát  của Luân Hoán dễ dàng, gần gũi... nhưng vẫn đậm chất thơ, giàu chất nhạc với lời cám ơn tha thiết, chân t́nh:

“Cám ơn vài mái tóc dài

Cho ḷng cư ngụ trổ tài linh tinh

Đi cùng cuộc sống bộ binh

Tôi tha thiết trổ nhánh t́nh thanh xuân”

(Chỗ cư ngụ thời săn người, NDCVK, trang 261)

 

Trở lại chuyên buồn vui đời lính, Luân Hoán nghịch đùa, ta thán:

“Cả đời chưa trói con gà

Đá đít con chó, vậy mà… cầm quân”

(Tôi thời tác chiến, NDCVK, trang 40)

Như để giễu cợt chính ḿnh:

“Không anh hùng, cũng hiên ngang

Làm người lính trân Việt Nam Cộng Ḥa”

(Một lần ngớ ngẩn, NDCVK, trang 216)

 

Súng đạn vẫn vô t́nh… Thời chinh chiến xưa nay đă có mấy người đi trở lại:

“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”

(Lương Châu Từ - Vương Hàn)

 

Ở một góc rừng nào, trong trận giao tranh, những giọt máu anh đă đổ xuống... Được tải thương về bệnh viện Dă Chiến I, anh vẫn lạc quan, an nhiên giễu đời,  đùa vui, cười cợt về mạng số:

“Khi chuyển đến nhà thương

Mang gọn tên Dă Chiến

Ta lận theo lá bài

Bức thư t́nh mới nhận

 

Rơ ràng ta đă tin

 

Bổn mạng ḿnh vững số

Và biết chắc t́nh em

Không xù dù có cớ.”

 

(Khi nằm bênh viện Dă Chiến 1, NDCVK, trang 91)

Với tâm trạng trên, Luân Hoán tự trào nếu may mắn sẽ được thăng cấp trong nến, hoa “Tổ Quốc Ghi Ơn, Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu”:

“Cuộc đời được gọi cuộc chơi

Cuộc chiến một đoạn cuộc đời phù du

Nghệ thuật sống biết ngao du

Coi sinh tử nhẹ nhàng như nhau… là

Vui chơi thơ súng tà tà

Cùng em xinh đẹp trong ta … sống c̣n

Nếu may… Tổ Quốc ghi ơn

Gắn nhành dương liễu lên lon bất ngờ

Sớm được đưa lên bàn thờ

Công thành danh toại ngoài mơ ước rồi….

(Ngao Du cùng vũ khí, NDCVK, trang 9)

 

Cũng tưởng chừng như cái cao ngạo với nụ cười châm biếm của Tú Xương trở về trong thơ Luân Hoán:

 “ “Trời kêu ai nấy dạ”

Riêng ta chắc chỉ Ừ

Nên chắc ông Trời ngán

Không thèm gọi thằng hư”

(Làm dáng, NDCVK, trang 171)

Tự nhận ḿnh là một người lính trừ bị, nhưng vẫn ưa chuyện chiến trường:

 “Chỉ là tay súng trong mùa

Động viên nhưng lại rất ưa chiến trường”

(Tôi thời tác chiến, NDCVK, trang 40)

 

Và có phải từ đó, mà tác giả bỗng chua chát hơn khi nhận ra nỗi khổ triền miên của người dân quê nghèo trong chiến tranh nghiệt ngă, khi tuổi thơ bị đánh mất, bị tàn phá bởi đạn bom. Nhà đă cháy. Người đă chết.

 “Trời chẳng động ḷng cho cơn mưa đổ

Ta xuôi tay cam đứng tần ngần…”

…………………

 

“Ta quay gót hận ḿnh bất lực

Chiến tranh ơi, máu mủ tương tàn

Đâu ranh giới của hai chiến tuyến

Ai chọn giùm ai một chỗ dung thân”

(Lửa cháy tuổi thơ, NDCVK, trang 140)

 

Nhưng vẫn c̣n chút ǵ êm ả khi nghe một tiếng hát quen từ thành phố vọng về, như khúc t́nh ca hàng hàng lớp lớp.  H́nh ảnh Đặng Dung hào khí mài kiếm dưới trăng bỗng soi bừng trong trí tưởng:

“Lính bố trí quanh khu vườn rộng

Mơ hồ nghe giọng hát Hoàng Oanh

“Anh đi chiến dịch  bi hùng quá

Gịng nhạc trôi cùng ánh mắt xanh”

……………

“Đang nghĩ về em, ḷng sao lạ

Nh́n trăng chợt nhớ… tướng Đặng Dung

Đầm đ́a hương nguyệt lưng đầu bạc

Hương kiếm mài thơm chí anh hùng”

(Trăng đêm xóm Ngọc Điền, NDCVK, trang 65)

 

Chuỗi ngày hành quân, chỉ nh́n thấy đồi núi vây quanh, vẫn không làm phai nhạt mộng mơ của người lính chiến:

“Ba ngày trấn giữ Phú Sơn

Đồi cao, núi thấp trên tṛn, dưới vuông

Khói lên mây xuống buồn buồn

Nắng vô ra núi ngát hương xuân th́”

(Trấn núi Phú Sơn, NDCVK, trang 69)

 

Trên nẻo quân hành gian khổ, Luân Hoán luôn giữ trong ballot  những tạp chí, nguyệt san, mang hơi thở thi ca của những khuôn mặt bạn bè văn nghệ cùng thời… Lâm Chương, Lê Vĩnh Thọ, Cao Thoai Châu, Trần Hoài Thư… để đồng cảm cùng nhau trên từng ngôn ngữ..

(Thói quen quân hành, NDCVK, trang 108)

 

Rừng tiếp nối rừng, những cuộc hành quân không giờ ngưng nghỉ:..

“Đâu là Tam Quan Nam?

Đâu là Tam Quan Bắc?

Nơi đâu Mả A Sầu?

Nơi đâu cầu Nước Mặn?

Trước ta xanh nghít rừng

Sau ta sừng sững núi

T́m môi hường lận lưng

Quả nhiên là quá khó

Hành quân, rồi hành quân

Đế giày không kip thở”

(Hành quân Tam Quan, NDCVK, trang 77)

 

Tuy nhiên, vẫn giữ vững một niềm tin tất thắng:

“Lội núi chưa bao giờ ta sợ

H́nh như ngực mọc sẵn niềm tin

Lá bùa hộ mênh thơm trầm ngăi

Hoa lá mưa mây trộn tiếng chim.”

(Mặt trận Phước Sơn, NDCVK, trang 89)

 

Chấp nhận, nhưng không bao giờ lùi bước:

“Quyết chẳng thể nào nằm đâu đó

Dù trên đất Mẹ, ḷng quê hương

Ta nuôi tổ quốc trong hơi thở

Gắng giữ cho đời có yêu thương

Chẳng dám trách ai gây chiến cuộc

Quê nghèo nhược tiểu, không buông xuôi

Lặng xếp bản đồ cho vào túi

Thắp sáng tự do đứng thẳng người.”

(Muc tiêu, NDCVK, trang 95)

 

Cũng có lúc dừng chân trên con sông Trà Khúc nổi tiếng quê em, bỗng nhận ra thân phận lạc loài, nổi trôi theo gịng định mệnh

“Ta người lính đang hành quân, được lệnh

Tạm dừng chân bố trí đợi, bất ngờ

Ngồi bên bờ chen cùng hoa cỏ dại

Ḷng buồn buồn theo mắt ngó bâng quơ”

 

(Bên một đoạn sông Trà Khúc, NDCVK, trang 85)

 

Nên làm sao không mơ hồ trong hư ảnh:

“Nhớ em hôn cái chỗ nằm

Hơi ta c̣n đọng hương trầm từ em?

(Thư gởi nhân t́nh trăm năm, NDCVK, trang 134)

 

Nhưng trên đoạn đường chiến binh mịt mù lửa đạn, cận kề bên nhau, vẫn là t́nh đồng đội sáng ngời, chia xẻ hiểm nguy, gian khổ. 

 

“Mày đừng vội chê tao hiền

Áp dụng chưa tốt cái quyền chỉ huy

Lính trận là phải biết ĺ

Sớm thành danh một tay ch́ hành quân”

(Thư gửi đồng đội cũ, NDCVK, trang 213)

 

Cùng chung trường Mẹ, lại gắn bó trên bước tử sinh đă là nỗi đau khổ không nguôi khi bâng khuâng nhớ lại sự hy sinh của một người bạn đồng môn.

 “Bây giờ nói ǵ nữa?

Mày trả xong nợ đời

Món nợ của tổ quốc

Vay khi chưa ra đời”

(Cũng chỉ vậy, NDCVK, trang 190)

 

Ôm xác bạn vài phút trong tay trước giờ trực thăng cất cánh, Luân Hoán ngậm ngùi “Mày đi nhẹ hơn thơ”

Trước đời sống và nỗi chết chỉ cách nhau một lằn chỉ mỏng, người lính cũng cần có chút men cay. Rượu như một người bạn quư, không thân nhưng dễ gần, cho cảm giác yêu thương hơn đời chiến binh mưa rừng, gió núi.

“Hớp một hớp chua chua, đắng đắng

Tu một hơi ngọt ngọt, cay cay”

(Rượu thời làm lính, NDCVK, trang 185)

 

Mang chút ngông nghênh “Uống rượu tiêu sầu” của Cao Bá Quát, Luân Hoán đảo ngược thơ ca, ngà ngà tỉnh thức:

“Kỳ vô phong giống nam vô tửu

Vô tửu rồi bứt rứt ngồi không

Nhớ mặt trận ḷng đầy hậm hực

Bắn vào đâu, đạn đă lên ṇng”

(Hớp rượu giữa khuya, NDCVK, trang 245)

 

Nhưng vẫn không quên:

“Vừa đánh giặc, vừa làm thơ

Vẫn luôn giữ vững ngọn cờ quốc gia”

(Theo câu vịn chữ, NDCVK, trang 142)

 

 Và nỗi nhớ nhà đă mênh mông trong thơ Luân Hoán

“Núi cao, trời bao la

Oằn ruột nỗi nhớ nhà

Em yêu và cha già

Trước mặt mà xa quá!”

(Hoàng hôn xanh, NDCVK, trang 106)

 

Bóng dáng người mẹ rơ nét qua cánh c̣ trên mặt sông rộng, như một nén hương ḷng kính yêu, tưởng niệm:

 

“Thả ḷng qua ruộng, qua sông

Thương cánh c̣ trắng vẫy vùng buồn tênh”

(Đoạn viết ở Thu Xà, NDCVK, trang 54)

 

Lời ai ru con theo gió đưa xa, bỗng cho hồn chông chênh, xúc động. Có phải ta chỉ thực sự  ta khi bên đời ta vẫn c̣n có mẹ?

“Xuống rừng khói đạn chưa nḥa

Chợt quần áo trận thơm hoa bất ngờ

Lời ru mầu nhiệm hơn thơ

Mang ta trở lại đời bao la t́nh

Vườn nhà cây lá lung linh

Tạ ơn giọng hát ấm t́nh ru con

Bước chân lựng chựng chưa ṃn

Nhờ ḷng Mẹ bọc gót son theo đời…”

(Tạ ơn giọng hát ru con bất ngờ, NDCVK, trang 116)

 

Đời lính phong sương với núi rừng ngút ngàn, giăng phủ…, nhưng khi được về phép qua phố đông vui, Luân Hoán cũng không khỏi se ḷng:

“Phố vui làm ḿnh thêm buồn

Thấy em nào cũng thoảng hương học tṛ….”

(Một lần đi phép thường niên, NDCVK, trang 120)

 

Chinh chiến quê hương trải dài trong thơ Luân Hoán, dù anh vẫn ví như ḿnh vào cuộc ngao du vui chơi cùng vũ khí. Và anh đă thực sư vĩnh viễn rời bỏ cuôc chơi, khi một bàn chân trái đă gửi lại cho chiến trường vào mùa xuân 1969.

“Giă từ vĩnh viễn cuộc chơi

Giă từ một chặng đời tôi, bất ngờ”

(Rách áo, rời hang, NDCVK, trang 316)

 

Chỉ khoảng hơn hai năm mặc áo lính, nhưng những nét chấm phá trong thơ Luân Hoán, đă cho chúng ta h́nh dung được cả một tuổi trẻ Việt Nam thật sống động, hào hùng.

 

“Tuy không nói ra, nhưng ta hănh diện

Đă có chút ǵ đích thực con trai

Quân sử không tên, ch́m vào quên lăng

Một chặng đời thơm suốt cả đời dài”

(Binh nghiệp, NDCVK, trang 357)

 

Dưới góc nh́n của môt người cầm bút có suốt tuổi thơ ngây “đại bác đêm đêm vọng về thành phố”,  tôi thành thật ngưỡng mộ và cám ơn anh – người đă để lại một phần thân thể trên chiến trường cho những người c̣n sống hôm nay trong hơi thở tự do trên vùng quê hương mới. Tiếng thơ anh sẽ không bao giờ tắt, bởi tự nó đă là những lời tự t́nh dân tộc. Như bước chân mùa thu âm thầm trong gió. Lặng lẽ trên từng khúc hát yêu thương. Từng mùa, và từng mùa.. Trong chờ mong mênh mang bất tận.

 

M.H.HOÀI LINH PHƯƠNG

 

Ghi Chú:

 

(1) Cư An Tư Nguy: tôn chỉ trên phù hiệu của các sinh viên sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

 

 

trích từ:

 

 

liên lạc mua sách: lebao_hoang@yahoo.com