Tru

Song Thao

 

 

 

 

Ngày Tết ở Việt Nam là ngày tíu tít mua sắm. Thường ngày, người ta tính từng xu khi đi chợ, nhưng Tết th́ khác. Đồng tiền tiêu ngày Tết là đồng tiền…thiêng liêng nên không cần tính. Cứ xả ga. Thứ ǵ cũng muốn phải là thứ hạng nhất dù cái túi tiền có khuyết đi một mảng lớn. Tết nhất, một năm mới có một lần! Đó là câu an ủi khi Tết đă qua, cái say Tết đă hết, chỉ c̣n thực trạng đớn đau là cái túi rỗng.

 

Ở hải ngoại chúng ta không cảm được cái tết như hồi c̣n ở trong nước. Cảm sao được khi ra đường tây đầm mặt mũi tỉnh chẳng biết tết là ǵ. Nhưng nhớ lại những cái tết xưa, khi c̣n ở trong nước, cả một trời tết bỗng trở lại. Ngày đó, chúng ta không ăn tết cho chúng ta mà ăn tết cho…hàng xóm. Chúng ta cạnh tranh nhau từ chậu hoa, cái giỏ đi chợ cho tới những đĩa hoa quả, khay mứt và những trang hoàng diêm dúa cho căn nhà trong dịp tết. Chúng ta nh́n nhau ăn tết và vênh mặt với những cái ta hơn người dù phải trả giá cho sự hơn thua đó.

 

Bánh chưng, câu đối là chuyện đương nhiên. Không có không phải là tết. Gói bánh chưng là một nghệ thuật. Luộc bánh chưng là một hoạt động mang vẻ tết nhất. Bên ngọn lửa hồng réo rắt trên những thớt củi to đùng, thân người cuốn gọn trong chiếc chăn mỏng, vừa uống trà ăn mứt hút thuốc, vừa chuyện tṛ thâu đêm bên nồi bánh. Chuyện trẻ chúng tôi say mê nhất hồi đó là chuyện ma do các anh chị lớn kể. Đêm khuya, tiếng gió rít, ánh lửa bập bùng, những con ma như đứng sát bên cạnh làm nổi da gà. Sợ văi…linh hồn nhưng lại thích nghe!

 

Bánh kẹo, mứt, trà trên bàn tiếp khách là chuyện dĩ nhiên. Hộp thuốc lá cũng phải ăn đứt thiên hạ. Thứ Cotab, Ruby là đồ bỏ. Phải thuốc ngoại quốc nhả khói ra thơm phức. Chẳng “Con Mèo” cũng “Ba Số 5”, kèm theo tí thuốc bạc hà Kool hay Salem. Vậy mới trọn bộ. Chơi trội hơn th́ thay v́ bao thuốc 20 điếu thông thường, bắt nguyên một hộp thuốc tṛn 50 điếu. Khi mời khách, mở nắp hộp ra, mùi thơm bốc lên nhức mũi, khẽ kéo cái đầu giấy b́a, vài điếu thuốc vươn lên mời mọc, mặt chủ nhân cũng vươn lên. Tiền nào mua được sự hănh diện đúng lúc này!

 

Câu đối đỏ là một biểu trưng tết khác. Có đôi câu đối treo trong pḥng tiếp khách, chủ nhân tỏ ra chữ nghĩa cùng ḿnh. Ngày xưa muốn có câu đối th́ phải lễ mễ bưng lễ vật tới nhà các cụ đồ để xin chữ. Cụ Nguyễn Khuyến là một nhà nho khôn lỏi! Chữ của cụ là chữ của chính người nộp lễ vật xin. Cụ chẳng mất chữ nào. Người xin nói sao cụ cứ nôm na chép ra như vậy. Thế mà thành câu đối!

 

Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ

Xin đôi câu đối để mừng ông.

 

Cơi trầu cũng là một thứ bắt buộc trong ngày tết. Đó là vào thập niên 1960, sau đó miếng trầu ngày tết biến mất dạng. Những ngày tết đó, mẹ tôi chăm lo cơi trầu cẩn thận. Bà là dân Bắc kỳ răng đen nên việc ăn trầu đă thành thói quen từ nhỏ. Ngày thường bà dùng cái âu trầu bằng đồng. Cái âu giống như một cái tô sâu có nắp ở trên. Trầu cau, con dao bài nhỏ, mảnh vỏ và chiếc hộp nho nhỏ đựng thuốc lào nằm bên dưới nắp. Trên nắp là những miếng trầu đă được quấn , những miếng cau đă được cắt đủ một lần ăn và b́nh vôi nho nhỏ. Ngày tết, chiếc âu này được nghỉ việc, bà dùng chiếc cơi trầu để tiếp khách. Cơi trầu của mẹ tôi bằng sơn mài đen có trang trí hoa lá cành. Nắp không trần trụi như cái âu đồng nhưng được chia ra thành từng ngăn nhỏ vừa đủ chứa một khẩu trầu gồm miếng trầu, cau và vỏ. Đó là nắp trong, c̣n một cái nắp ngoài phủ kín cơi trầu. Phía trong ngăn màu đỏ chót nổi bật trên nền đen của nắp. Tất cả đều bóng loáng. Có nhiều kiểu cơi trầu, kiểu nào cũng đầy nét thẩm mỹ. Bên nhà mấy bà bác của tôi có những cơi trầu bằng gỗ đánh vẹc-ni láng bóng, chạm trổ bằng xà cừ. Chiếc ống nhổ bằng đồng là thứ không thể thiếu được dưới bàn tiếp khách. Ngày tết nó bóng lộn v́ được chúng tôi bị sai làm tạp dịch chùi với cát ngoài sân. Cơi trầu là thứ được cưng quư nhất trong ngày tết v́ “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Vừa nhai trầu bỏm bẻm, các bà vừa kề cà đủ thứ chuyện. Thỉnh thoảng lại với chiếc ồng nhổ, cúi đầu xuống nhổ ra một chất đỏ chói. Càng đỏ miếng trầu càng ngon.

 

Trầu có ngon không, tôi đă có lần ṭ ṃ ăn thử. Cay sè! Vị cay của lá trầu, vị chát ngọt của cau, vị chát đắng của vỏ, vị nồng của vôi, tất cả quyện vào nhau như một hợp chất tân khổ. Đối với tuổi trẻ của tôi hồi đó, trầu đâu có chi hấp dẫn mà các bà nhai cả ngày. Hút trộm điếu thuốc thơm, ho sặc sụa nhưng c̣n thấy khoái hơn nhiều. Trầu chỉ có được một điểm thích thú là thứ nước đo đỏ được nhổ ra ống  nhổ. Đó là thứ nước lạ, kết quả của việc nhai đến mỏi miệng các thứ chẳng có thứ nào có màu đỏ cả. Chúng tôi thích thú v́ khi nhổ nước ra có cảm tưởng như vừa làm được một tṛ quỷ thuật!

 

Ăn trầu đâu có chi thích thú nhưng dân ta đă ăn liên miên từ thời nảo thời nào tới giờ. Việc ăn trầu mỗi ngày mỗi mai một v́ các cô tân thời không muốn đỏ miệng đỏ răng. Mốt răng đen đă bị dẹp từ khuya. Thứ “hạt huyền” không c̣n là thứ hạt quư nữa. Với bà cụ tôi, việc ăn trầu được khai tử từ những năm giữa thập niên 1960. Ngày tết mẹ tôi không c̣n bận tâm về chiếc cơi trầu nữa. Nhưng việc ăn trầu chưa chấm dứt. Vẫn c̣n bỏm bẻm cho tới tận bây giờ. Các siêu thị người Việt tại nơi có người Việt tạm cư nay vẫn c̣n bán trầu cau.

 

Ăn trầu thịnh hành nhất là ở miền Bắc nước ta. Ngày nay tại nông thôn trầu cau vẫn c̣n có cuộc sống. Sống hùng sống mạnh nhất là ở làng Phú Lễ, xă Cần Kiệm thuộc Thạch Thất, Hà Nội. Dân làng này ăn trầu tuốt luốt không trừ ai.Trẻ nhỏ, thanh niên, thiếu nữ đều nhóp nhép. Các cụ già th́ khỏi nói. Đây là một làng trù phú có nhiều nhà lầu và những cánh đồng lúa xanh mướt, nhưng cái đập vào mắt mọi người khi tới thăm làng là những thân cau cao vút. Nhà nào cũng trồng cau. Cau là một đơn vị tính toán đầu tiên trong những dịp cưới hỏi. Trai làng Phú Lễ lấy vợ ngoài làng th́ thường chỉ phải nộp sính lễ 500 quả cau. Trai làng khác lấy gái Phú Lễ th́ phải chẵn ngàn quả. Trai gái Phú Lễ lấy nhau th́ phải vác tới hai ngàn quả mới đủ cho dân làng chia nhau ăn trầu. Ngày Tết trong nhà có thể thiếu bánh chưng, thiếu hoa đào, thiếu chậu quất nhưng cau trầu th́ bắt buộc phải có. Không ăn trầu không phải dân làng Phú Lễ. Có người biết ăn trầu từ năm 4 tuổi. Ngày nay thanh niên thiếu nữ trong làng đâu có thể chỉ ru rú trong xó bếp như các cụ xưa. Họ cũng phải lên tỉnh đi học đi làm. Lên chốn thị thành, họ phải kiêng trầu cau nhưng khi về làng họ lại bị trầu cau cám dỗ. Vậy là lại nhai. Thầy giáo Kiều Quang Học là một trong những người này. Anh nói: “Mỗi khi đi đâu xa tôi đều phải đánh răng nhiều lần hoặc đi lấy cao răng v́ hàm răng đă bị xỉn màu. Nhưng về đến nhà là không chịu được, lại phải lấy trầu để nhai cho đỡ thèm”. Ngày nay trong lễ hội quan họ Bắc Ninh, người ta vẫn mời trầu cho khách du lịch Tây phương. Không biết có ông tây bà đầm nào dám nhai thử món…ứa ra máu này không?

Như vậy trầu cau là thứ quốc hồn quốc túy của nước ta. Chuyện ngày xưa có hai anh em nhà kia, cùng thầm yêu một cô gái làng bên mà chúng ta hay hát chẳng phải là minh chứng sao? Sự tích trầu cau là câu chuyện t́nh buồn. Chết liên miên hết. Hai anh em Tân và Lang rất thương yêu nhau. Khi Tân lấy vợ, quấn quít với vợ, khiến Lang buồn. Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi v́ đâu? Bởi v́ lảng xẹc! Vậy là Lang bỏ nhà ra đi tới kiệt sức chết biến thành tảng đá vôi. Chàng Tân thương em đi t́m cũng kiệt sức chết bên tảng đá và biến thành cây cau. Cô vợ đi t́m chồng, cũng chết và biến thành dây trầu leo lên cây cau. Vậy là phải mất tới ba mạng người mới ra món trầu cau cho dân ta nhai. Trầu cau đúng là thứ made in Vietnam.

Nhưng chúng ta bé cái nhầm. Dân Miến Điện cũng nhai kun-ya với đậu khấu , đinh hương và cau. Dân Ấn Độ nhai paan với cau vụn gói trong lá trầu, thuốc lào, bạch đậu khấu, bạc lá, dừa và cả mứt nữa! Dân Đài Loan c̣n ăn trầu bạo hơn nữa. Cứ năm người th́ có một người nhai trầu. Mỗi năm họ chi ra tới 3 tỷ đô Mỹ để nhập cảng cau từ Sumatra, Malacca, Thái Lan và Việt Nam.

 

Dân Philippines cũng nhai nga-nga. Chuyện này tôi có mục kích khi sống ở Manila. Thường th́ chỉ có người già mới ăn trầu. Họ cũng dắt cục thuốc lá to tổ chảng trên môi. Ăn trầu đi đôi với hút thuốc lá. Các cụ Phi có lối hút thuốc lá rất ngược ngạo. Họ ngậm đầu có lửa vào bên trong miệng!

 

Vậy th́ trầu cau chẳng phải là thứ độc quyền của dân nước ta. Nhưng trầu cau h́nh như gắn bó với cuộc sống của dân ta nhất. Tết nhất, cưới xin là phải có trầu cau tháp tùng mới nên chuyện. Trầu cau đă thô bạo xen vào chuyện t́nh duyên. Tôi chỉ trích ra hai câu ca dao rất t́nh…cau:

 

Thương nhau cau sáu bổ ba,

Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.

 

Quả cau vào tay bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương mới thật t́nh:

 

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu ôi,

Nay của Xuân Hương đă quệt rồi.

Có phải duyên nhau th́ thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

 

Ba biến thể của vợ chồng anh chàng Tân và anh chàng Lang: trầu, cau và vôi là nền tảng cho miếng trầu. Lá trầu có thứ ngon thứ không ngon. Ngon nổi tiếng là trầu làng Chả v́ lá nhỏ, vừa thơm vừa cay. Ngày nay có trầu Hưng Yên thuộc loại xịn. Nhưng đẹp mặt dùng trong dịp cưới hỏi là trầu Tây Sơn v́ lá to và đẹp. Têm một miếng trầu ăn thông thường rất giản dị. Thế hệ chúng tôi chắc ai cũng rành sáu câu cả. Nhưng những thế hệ sau có người chỉ nh́n thấy h́nh, chưa bao giờ được nh́n thấy miếng trầu ngoài đời. Nói chi tới việc ngồi têm một miếng trầu. Ngày nhỏ, thấy mẹ ngồi têm trầu tôi tưởng dễ cũng đ̣i têm. Đụng vô mới thấy trần ai khoai củ. Lấy một lá trầu, nếu lớn th́ vạt đi một vạt, nếu nhỏ th́ kèm theo vào cái vạt cắt ở lá lớn. quệt vào tí vôi. Nhớ để cái cuống lá lại, đừng cắt. Cuốn lá trầu lại như cuốn…sushi. Tính trước cái cuống lá có thể đâm vào chỗ nào th́ lấy cuống dao đâm thành một lỗ ở chỗ đó. Nhét cái cuống lá vào lỗ cho cuốn trầu giữ chặt lại. Dao têm trầu có cái đuôi cán nhọn như một chiếc dùi để đục lỗ. Thường th́ miếng trầu do tay mơ như tôi hồi đó têm trông tả tơi. Bỏ xuống là cái cuống lá tuột ra, miếng trầu tanh bành như phơi cả tấm ḷng dính vôi bạc bẽo. Chỉ quấn một cách chân phương như thế cũng không xong huống chi thấy người ta cuốn điệu nghệ cánh phượng cành phiếc, tôi phục sát đất.

 

Bổ cau là thứ tôi chẳng bao giờ được mó tay vào. Con dao mỏng te, sắc như lá liễu, lúc nào cũng như đe dọa xơi tái một miếng tay như không. Thứ đó trẻ con không được đụng vào. Cau thường được bổ làm tư hay làm tám, tùy theo trái lớn hay nhỏ, và tùy theo cau hiếm hay không. Cau ngon phải là cau bánh tẻ, không già, không non, vừa tới hạt. Cau Đông ở Hải Hưng có tiếng là loại cau ngon nhất. Khi trái mùa, người ta dùng cau khô. Miếng cau khô như chiếc thuyền cong veo cứng quèo quèo trông chẳng hấp dẫn chi. Nhưng trái mùa cau th́ phải dùng đỡ. Cứ như thân phận ḅ ở Canada, tuyết xuống th́ chỉ có nhai cỏ khô đóng thành từng bành từ hồi mùa hè. Để đỡ vất vả cho hàm răng, các cụ thường ngâm cau khô cho mềm trước khi ăn. Cụ nào hàm răng đi chơi hết th́ có cối giă trầu, c̣n gọi là ống ngoáy. Đó là một cái chén nho nhỏ như cái chung uống rượu bằng đồng hoặc bằng sứ. Cho tất cả trầu cau và vỏ vào rồi dùng một cái que bằng kim loại nghiền trầu cho nát ra. Khi đă đủ nát, lua tất cả vào miệng, nhai nhè nhẹ tiếp. Đây là vật bất ly thân của các cụ. Cụ Nguyễn Khuyến đă than: c̣n một nỗi này thêm chán ngắt / đi đâu giở những cối cùng chày.

 

Một trong những điều các tiểu thư khuê các phải học hỏi là têm trầu. Đó là một nghệ thuật. Qua cách têm trầu người ta có thể phán đoán phong cách, tính nết cũng như nếp sống của mỗi con người. Bởi vậy nên trong các cuộc đi xem mặt nàng dâu tương lai thường có màn nhà trai vời cho được cô dâu ra têm trầu. Đây là một…chiến thuật. Cô gái ngồi đó, các cụ tha hồ ngắm nghía để coi tướng và coi cử chỉ têm trầu của cô gái để đoán tính nết. Miếng trầu têm vụng là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa.

 

Vôi giữ một vai tṛ quan trọng trong miếng trầu. Nhiều vôi th́ nồng, ít vôi th́ nhạt. Muốn có vôi th́ phải tôi vôi. Chuyện này tôi cũng đă…nghịch qua. Vôi là những cục màu trắng. Muốn biến chúng thành thứ nhăo nhăo để ăn trầu, người ta phải tôi vôi, nghĩa là trộn cục vôi vào nước. Khi vôi gặp nước nó sôi sùng sục, khói bốc lên. Vôi sau đó sẽ được trét vào b́nh vôi. B́nh này như một chiếc ấm nước kín mít chỉ có một lỗ lớn bằng cái chén hạt mít. Cụ Phan Khôi có bài viết “Ông B́nh Vôi” đăng trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập 1. Cụ tả chiếc b́nh vôi: “Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ b́nh vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà bậc trung thường dùng; một thứ b́nh tṛn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai dùng để đựng vôi trong ḷng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên. Nhà tôi, hồi bà nội tôi c̣n sống, có cái b́nh vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái ch́a quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho Ông B́nh ăn”. Và lâu lâu lại tắp thêm cái miệng nó một lần, hóa nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra”. Cái miệng chêu vêu đó cứ được đắp thêm hoài nên ngày càng tum húm lại không dùng được nữa nên phải mua cái khác. Những b́nh cũ được để trên trang thờ tam vị. Làng tôi theo công giáo nên những b́nh cũ thường được mang ra để hoặc treo ở gốc đa đầu làng. Đó là những thứ hết xài!

 

Giai Phẩm Mùa Thu cũng như Nhân Văn, hồi đó là những tạp chí đ̣i cởi trói văn nghệ, bị đ́ hết mức. Cuối bài, nhà văn Phan Khôi hạ bút: “Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ này cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái b́nh vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại”.

 

Khỏi nói, chúng ta cũng biết, trong một chế độ độc tài đảng trị, mà viết như vậy, nhất định phải nhận những đ̣n thù. Từ các ông b́nh vôi! Các nhà văn nhà thơ có bài viết trên các tạp chí khai phóng này đă bị hành hạ sất bất sang bang cho tới cuối đời. Ngày đó cũng như ngày nay, không ai lạc quan tếu để mong chờ sự thay đổi của những chiếc b́nh vôi đặc sệt đang nắm quyền.

Năm hết tết đến, ngao ngán chuyện nước non, thôi th́ cố gượng vui bằng cách nắm áo cụ Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ đă phán: thân dậu niên lai kiến thái b́nh. Cụ sanh năm 1491 và mất năm 1585. Biết bao cái thân dậu đă đi qua từ ngày cụ phán câu sấm này. Hy vọng năm Bính Thân 2016 này là thời điểm cụ nhắm tới cho đất nước thanh b́nh, thoát khỏi mấy ông b́nh vôi đă hết xài mà tưởng ḿnh c̣n ngon. Pháo đâu, đ́ đùng cho vận hội mới của đất nước coi!

 

Song Thao

www.songthao.com

 

 

http://cms.kienthuc.net.vn/uploaded/vutienduc/2014_03_03/kt-03-04-14-nguyenkhuyen-kienthuc_mkgd.jpg

Tranh vẽ cụ Nguyễn Khuyến mặc áo quan treo trong từ đường tại quê nhà cụ.

 

 

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/7/7f/Nguyen_Binh_Khiem.JPG/290px-Nguyen_Binh_Khiem.JPG

Tượng cụ Trạng Tŕnh

Nguyễn Bỉnh Khiêm

tại Văn miếu Trấn Biên (Đồng Nai)

 

 

K:\Documents\My Pictures\untitled2.png

Têm trầu tại làng Phú Lễ, Thạch Thất, Hà Nội.

 

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b9/B%C3%ACnh_v%C3%B4i_%28lime_container%29_5.JPG/220px-B%C3%ACnh_v%C3%B4i_%28lime_container%29_5.JPG

 

B́nh đựng vôi ăn trầu bằng gốm Bát Tràng

 

http://baotangphunu.org.vn/Uploads/20130718/bc70bce6-dbc8-4e8e-a2a2-793d3e595949.jpg

Tráp đựng trầu,.

 

 

http://baotangphunu.org.vn/Uploads/20130718/00d39c90-cee0-4962-99c7-7d2188f208f2_159.jpg

Cối giă trầu, Bến Tre, 1940

 

https://scontent-lga3-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xfa1/v/t1.0-9/429837_159562424226717_1139726072_n.jpg?oh=164706457270a433394408250dd2b18d&oe=5709BA9C

Trầu cánh phượng.

 

https://scontent-lga3-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xpa1/v/t1.0-9/934625_159563537559939_1036561887_n.jpg?oh=1ff243db0333756853b81dcbf9770046&oe=57465694

Mời trầu tây đầm tại lễ hội quan họ Bắc Ninh.