Vài điển tích trong bài nhạc Ngọc Lan

của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước

 

 

Sóng Việt Đàm Giang

 

 

Lời mở đầu.

Sau khi bài viết Mối T́nh Học Tṛ của tác giả Nam Minh Bách nói về nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và nguyên do sự ra đời của bản nhạc Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước th́ có một số thư trên các diễn đàn bàn về ư nghĩa lời bản nhạc. Mục đích của bài viết ngắn này không bàn về lư do hay nội dung tuyệt diệu của bài nhạc mà chỉ bàn về ư nghĩa và xuất xứ  của một vài điển tích mà Nhạc sĩ Duơng Thiệu Tước đă nhắc đến trong bài.

 

Ngọc Lan

Ngọc Lan, ḍng suối tơ vương, 
mắt thu hồ dịu ánh vàng 
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng, 
tà mây cánh phong, nắng thơm ngoài song 
Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu 
Gió rung mờ suối biếc, ư thơ phiêu diêu 
Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng (1)
Dáng tiên nga, giấc mơ nghê thường lỡ làng 
Ngọc Lan, trầm ngát thu hương, 
bờ xanh bóng dương, phút giây ch́m sương 
Bông hoa đời ngàn xưa tới nay 
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây 
Cho tơ trùng đàn hờ phím loan (2)
Thê lương mây nước, sắt se cung đàn 
Ôi tâm hồn nghệ sĩ ch́m trong sương thắm 
Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa Ngọc Lan (3)
Mờ mờ trong mây khói, men nồng u ấp, 
duyên hững hờ dần dần vương theo gió 
Tơ ḷng dâng bao cùng thương nhớ...

Xin đuợc bàn về điển tích ba chữ mạch tương, phím loan  phút khuê ly

 

1-Mạch tương

Mạch tương, nước mắt.

Đây là một điển cổ, xuất phát từ truyện hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn. Tục truyền rằng vua Thuấn tuần thú phương Nam, bị mất ở đất Thương Ngô, là một quận của tỉnh Quảng Tây về sau. Hai bà vợ là hai chị em ruột cùng khóc chồng đến chảy máu mắt trên bến Tiêu Tương. Người đời sau có lập đền thờ hai bà tại Đông Tương và kể rằng giọt lệ hai bà rỏ trên bờ trúc ven sông làm trúc nổi vân thật đẹp. Từ đó về sau, trúc mọc trên bờ Tiêu Tương nổi tiếng có vân quư và nước mắt đàn bà mới gọi là mạch tương.

 

Truyện Kiều có câu:

"Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đă dàu mạch tương".

(Câu 237, 238. Kiều sau giấc mơ thấy Đạm Tiên)

 

Là danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong hội họa và thi ca Trung Hoa, Tiêu Tương thực ra là khúc hai con sông Tiêu và Tương hợp nhất, thuộc tỉnh Hồ Nam. Sông Tương phát nguồn từ Dương hải sơn ở tỉnh Quảng Tây, chảy ngược lên Hồ Nam qua huyện Trường Sa và rót vào Động Đ́nh Hồ. V́ trúc Tiêu Tương có vân đẹp nên thợ khéo tỉnh Hồ Nam hay đến sông này mua về làm mành. Và cũng v́ xuất xứ bi thảm của sông Tương, chữ mành tương là chỉ tấm màn cách trở t́nh yêu, và sông Tương chỉ sự chia ly, nhung nhớ. 

Mành tương phơn phớt gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng t́nh."

(Câu 255, 256. Kim Trọng tương tư Kiều)


Sông Tương c̣n là điển tích từ mối t́nh buồn giữa Lương Ư Nương và người anh con cô con cậu là Lư Sinh, thời nhà Chu, đời Ngũ Quư. Mối t́nh vụng trộm của họ bị phát giác và ngăn cản, Ư Nương bị nhà đẩy xuống phía Nam sông Tương, Lư Sinh ở mạn Bắc. Lương Ư Nương hớp từng hụm nước sông mà nhớ đến người t́nh trên đầu nguồn, và làm bài thơ nói về sông Tương dù sâu cũng c̣n có đáy chứ nỗi nhớ nhung của nàng th́ bất tận.

 

"Nhân đạo Tương giang thâm
Vị để Tương giang bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn.
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang  
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy"


(Người bảo sông Tương sâu
Chưa bằng ḷng mong nhớ
Sông sâu c̣n có đáy

Ḷng nhớ lại không bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương
).


Cũng như trong câu 365-366 của Kiều, Nguyễn Du đă viết:

 

"Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia."

(Câu 365, 366. Tâm trạng Kim, Kiều)

 

2- Phím loan.

 

Ngoài câu

Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan,

 

trong Kiều (câu 723-726) có câu:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em

Ư nghĩa của chữ Phím loan

Trên internet có nhiều văn bản giải thích như sau:

 

Chữ loan trong phím loan xuất xừ từ chim loan mà ra.

 

Loan trong phím loan bắt nguồi từ chữ loan giao = Keo chế từ máu chim loan, tương truyền nối được dây cung đứt.

Theo Bác Vật Chí : Thời Hán Vũ đế, nước Tây Hải có người đem dâng 5 lạng cao. Vua cho đem cất vào kho, c̣n thừa nửa lạng sứ thần nước Tây Hải mang theo người. Sứ thần theo Vũ đế đi săn bắn ở cung Cam Tuyền. Dây cung vua đứt, các quan định thay, sứ thần Tây Hải xin lấy keo loan nối lại. Nối xong, vua sai lực sĩ kéo mỗi người một đầu dây nhưng vẫn không việc ǵ. Sứ thần Tây Hải nói cung có thể bắn suốt ngày mà dây không đứt. Vua lấy làm lạ lắm, nhân đó đặt tên là "Tục huyền giao" (Keo nối dây cung).

 

            "Keo loan" do chữ "loan giao" là một thứ keo chế bằng máu chim loan (phượng máu).

            Sách "Hán Vơ ngoại truyện" có chép: đời nhà Hán, triều Hán Vơ Đế (140- 87 trước C.N.), dây cung đem ra căng bắn thường bị đứt. Bấy giờ miền Tây Hải có đem sang cống một thứ keo chế bằng máu chim loan gọi là loan giao, có tác dụng nối chắc dây lại. Nhờ đó mà bắn được suốt ngày. Vơ Đế mừng lắm, đặt tên thứ keo đó là "Tục huyền giao" tức là keo nối dây cung.

 

            "Hán thư" cũng có chép chuyện.

            Vua Vơ Đế truyền phu nhân Câu Pha đánh đàn. Nàng vặn trục so dây, tiếng đàn trỗi lên lảnh lót... Nhưng giữa chừng dây bỗng đứt. Nàng khóc, nói:
- Giữa lúc đàn đương ngon tiếng mà dây đứt ắt điềm gở
    Nhà vua an ủi:
- Dây đứt nhưng có thể nối lại được, có ǵ mà gở.

            Đoạn sai người lấy keo loan chắp lại.

 

Lời bàn: Nếu keo loan hay cao chim loan là cao do nấu với xương cốt của chim loan mà thành (chứ không phải máu loan) th́ có lẽ có ư nghĩa hơn là máu chim loan, v́ nếu ai có dịp sờ chất cao th́ thấy luôn luôn có chất dính làm dính tay (Sóng Việt).

 

Cao là ǵ? Cao là chất liệu cô đặc của xương cốt thí du như cao ban long, cao hổ cốt.

Cách nấu cao: Nấu cao tức là nấu vật liệu sau khi tẩy khử những tạp chất (như thịt, mỡ, tuỷ bám vào xương) bằng lửa cao vừa phải trong nhiều thời gian để tinh túy tan ra, mức nước sôi cạn th́ phải canh chừng châm vào. Nấu cao bằng vạc hay chảo đụng lớn. Nước cốt được múc ra thành nhiều đợt, từ đậm rồi lạt từ từ  để cuối cùng cô những mẫu nước cốt  lại thành cao đặc .  Đợt Nước cốt này được múc ra th́ lại được châm nước sôi mới vào làm đợt khác. Giai đoạn cô cao phải canh chừng lửa vừa phải kẻo bị cháy nồi hỏng toàn mẻ cao. Ngày xưa, không có đồng hồ th́ phải đốt nhang mà tính thời gian.  Đại khái th́ nấu cao hổ cốt, ban long, qui bản là như vậy. Ngày xưa, không có giấy bóng, người ta dùng lá chuối khô để gói sau khi cắt miếng rồi cân lượng, ghi nhăn bằng một vuông giấy hồng điều. (theo tài liệu trên internet)

Về thành phần hoá chất, những khảo sát thực nghiệm về cao hổ cốt cho biết cao hổ cốt chứa các chất sau: collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonate, magnesium phosphate, kalium carbonate - nhưng collagen là hoạt chất chính. Gelatin của  Hổ cốt chứa 17 amino-acid. (theo tài liệu trên internet)

Vậy chất keo loan hay cao loan có lẽ chế bằng xương cốt mà không phải là máu chim loan (?) và đặc tính dính của keo loan do collagen mà thành (chính người viết ngày c̣n nhỏ rất nhỏ đă nh́n những miếng cao mầu nâu đậm xắt h́nh chữ nhật của bà nội).

Trong Chinh Phụ Ngâm bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm có câu

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
 (câu 207)

Sợ làm đứt dây uyên ương (dây uyên kinh đứt) v́ có thể báo hiệu điều không may của t́nh cảm đôi lứa; sợ cây đàn chùng dây (phím loan ngại chùng) gợi lên điều không may mắn của lứa đôi đang xa nhau.

 

Sự tích keo loan là như thế.

 

3- Khuê ly

 

Hai chữ khuê ly đuợc nhắc đến trong Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

Chinh phụ ngâm (征婦吟, khúc ngâm của người chinh phụ), c̣n có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm thơ của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và đuợc bà Đoàn Thị Điểm dịch ra cùng thời  về sau có thêm người dịch ra thơ Nôm.

 

         
      酸 (câu 291)

Bất thăng tiều tụy h́nh hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan

(Chinh Phụ Ngâm/Đặng Trần Côn )

 

Khuê ly trong câu 252/412 trong bản chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm

Khuê ly mới biết tân toan dường này.

Trong câu này chính bà Đoàn Thị Điểm cũng vẫn dùng chữ Hán nôm: Có chia ĺa ngang trái th́ mới biết đau xót cay dắng đến mực nào.

 

 

 Khuê: ngang trái

 Ly: ĺa tan chia rẽ

 Tân: cay đắng nhọc nhằn

 Toan: đau xót, mủi ḷng

 

Nhớ phút khuê ly: nhớ phút chia ĺa ngang trái.

 

Kết luận.

 

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tài cao, kiến thức rộng, sự phong phú tư tưởng cùng dùng nhiều điển tích trong bài nhạc Ngọc Lan làm người viết những hàng chữ này đă nghĩ phải chăng ông thấu triệt điển tích và mang vào bài nhạc do am tường văn chương chữ Hán mà không nhất thiết dựa theo điển tích đă dùng trong những tác phẩm trước đó ? Và độc giả do quen thuộc với những tác phẩm văn học như truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm nên đă có ngay một sự liên tưởng không tránh được?

 

Sóng Việt Đàm Giang

05 June 2010