VIT NAM

Quê Hương Cẩm Tú


Tình Hoài Hương

 

1. Từ Đà Lạt đến Krông Pha

 

 

  

 

 

Từ thời Pháp thuộc độc đoán rất hà khắt, đã phân chia nước Việt Nam tách bạch ra ba miền lãnh thổ, để họ dễ bề thống trị dân ta. Thật là phiền toái, rối rắm qua bao dị biệt, và dần dần trở thành “tự nhiên” phân chia rõ ba miền: Bắc. Trung. Nam, vô tình đi đến sự chia rẽ đến nhức bưng cái đầu.

 

Thành phố ĐÀ LẠT mệnh danh là vùng đất “Hoàng Triều Cương Thổ” an ngự ở miền Cao Nguyên Trung-phần trên độ cao 1.475m (nếu Đà Lạt trên cao độ 2.163m, là tính từ mặt biển lên chóp đỉnh núi Lâm Viên). Đà Lạt là vùng khí hậu Á Ôn, nhiệt độ trung bình một ngày khoảng: 18/oC > 20/oC, thấp nhất là 12/oC. Đà Lạt có hai mùa: nắng và mưa. Thành phố Đà Lạt luôn mờ mờ ảo ảo, nhạt nhòa ẩn hiện sau làn sương ẻo lả, mỏng manh. Những cơn mưa phùn lăn tăn li ti vào độ cuối Thu, chuyển hạt nhỏ li ti như bụi phấn, nhẹ tênh, âm thầm lả lơi đậu trên mái tóc lữ hành. Nước ban mai ở các khe đá, suối, hồ, khe, chưa chảy kịp, thì nước buổi chiều đã dâng lên cao; chảy xối xã suốt tháng năm về bao con thác cuối nguồn. 

 

  

 

Đồi Cù

 

Đà Lạt có nhiều thắng cảnh tuyệt vời, nào là: hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Lãng Ông, hồ Chi Lăng. Hồ Tuyền Lâm. Suối Vàng, suối Bạc, suối Cát Tiên. Rừng Ái Ân. Đồi Thông Hai Mộ. Thung lũng Tình Yêu... Nào là chùa Sư Nữ, chùa Linh Sơn, chùa Tàu… thác Cam Ly, thác Datanla, thác Prenn, thác Liên Khương, thác Gougah, thác Pongour. Thác Voi... Nào nhà thờ Domain de Marie. Nhà dòng Couvent des Oisaux. Gác chuông nhà thờ chính tòa cao ngất in hình con gà với… Thủy Tạ. Viện Đại Học Đà Lạt… Viện Pasteur nổi tiếng. Thiền viện Trúc Lâm. Trường Grand Lycée… Trường Tabert… (A’ Dran). Trường dòng Missionaires de Marie. Trường Nam Trung-học Trần Hưng Đạo. Trường Nữ Trung-học Bùi thị Xuân… Trường Tư Thục Trung-học Việt Anh. Trường Trung học Tư Thục Bồ Đề.. Trường Trung học tư thục Trí Đức... Trường Trung học Hiếu Học... vô số trường Tiểu Học Công Lập & Tư Thục.

Sân Golf hữu tình. Nhà Thủy Tạ mơ màng in bóng bên hồ Xuân Hương. Đập Đa Nhim. Có ba dinh thự rộng lớn sang trọng ở thời bấy giờ dành cho gia đình vua an ngự.  Vân vân...

 

 

                        Thác Frenn - Đà Lạt   

 

 

Thị xã Đà Lạt nằm trong Tỉnh Tuyên Đức bao la rộng lớn gồm có 3 Quận: Đức Trọng. Đơn Dương. Lạc Dương. Đà Lạt có mùa mưa dầm từ cuối tháng Tư kéo dài đến tháng Mười Một. Mùa gió thịnh hành nhất vào mùa đông lại là gió từ hướng tây. Tuy thế khí hậu vùng Cao Nguyên Lâm Viên nầy khá dễ chịu. Mùa ráo khô từ tháng 12 đến đầu tháng 5, bầu trời thanh thoáng mát rượi, luôn có nắng ấm độ ẩm chan hòa. Toàn tỉnh Tuyên Đức có khoảng 20 loại khoáng sản: cao lanh, than nâu, boxit, than bùn, sắt, thiết, chì, kẽm, rubi, saphia, opan, kể cả vàng non... nhất là vàng ở vùng núi đồi hiểm trở ở Taing thì khá nhiều. Đà Lạt là vùng đất đỏ bazan và nâu vàng tụ bồi phù sa phì nhiêu do từ suối, hồ, thác. Không những Đà Lạt ngoạn mục, nên thơ, diễm lệ, trữ tình… mỗi khi du khách ghé tạt về thăm, mà còn có nhiều rừng thông cao ngút bạt ngàn, có rừng hỗn giao lá rộng, rừng lá kim, rừng tre nứa... Quanh năm vườn tượt xanh màu tốt tươi dồi dào hoa quả cây trái trĩu cành. Khí hậu Đà Lạt ưu đãi nhất là phụ nữ và trẻ em, da dẻ họ luôn trắng trẻo hồng hào mịn mượt. Ngoài cư dân tứ phương quy tụ về vùng Lâm Viên nầy, còn có sắc dân: Thái - Thổ - Nùng – Tày – Mường – Mán - Hoa (Tàu) - Thượng (Thiểu số)  K’Ho - Mạ - Chu Ru – M’ Nông

 

  

 

Dân tộc Thiểu số

 

Ra khỏi thành phố Đà Lạt có trăm ngàn bông hoa khoe sắc quanh trong nhiều biệt thự và thổ gia cư ngụ rải rác bên triền đồi, bên suối mộng hồ mơ. Những mái nhà ấm áp ở dưới thấp lẫn trên cao. Mỗi đêm, ánh đèn nhà ai thấp thoáng lung linh mờ ảo ẩn trong mây, mờ trong sương, thi vị trong cây, lẫn trong núi đồi chập chùng nhấp nhô cao thấp; trông thật nên thơ, thi vị và vô vàn quyến .

 

Xe đò chạy xa dần đền Sofnadronhay, xa từng đầu cây ngọn cỏ. Xe bon bon chạy về hướng Cầu Đất. Những ruộng dâu, những luống hoa, những đồi trà, đồi cà phê rợp bóng, vườn lá dâu (nuôi tằm) giăng mắc nơi nơi. Mỗi khi vào mùa hoa nở, cả vùng trời sương mù đầy hoa thơm ngát tỏa mùi thơm ngào ngạt, ngây ngất. Đỗ đèo Đơn Dương, bình minh len lỏi trong những vầng mây hồng thắm, gợn từng sóng mây viền bạc long lanh, xen lẫn màu vàng sáng, dần dần ló lên bên triền núi thấp có nhiều đoạn gấp khúc. Từng cuộn mây trắng nõn, không hiểu từ đâu quyện với hơi sương, tạo thành những chùm bông gòn xôm xốp, lênh đênh bồng bềnh trôi về núi.

 

Đỗ đèo Đơn Dương, xe chạy ngoằn ngoèo trên con đường mờ mờ bóng tối, trơn ướt nước sương long lánh đọng thành từng giòng, con đường nhựa bóng láng như da lươn. Đầu xe hơi luôn chúi nhủi xuống mãi khi xuống đèo, có nhiều khúc ngoặt hiểm nghèo như cùi chỏ co quặp. Trên cao chót vót đỉnh đèo nhìn xuống chân núi, từng mảng sương mỏng dài, như dải lụa tản mạn trong bầu trời, hoặc vắt vẻo trên thân cổ thụ trùng trùng điệp điệp. Mặt trời chiếu xiên, tỏa muôn ngàn ánh hào quang rực rỡ, lấp lánh bảy sắc cầu vồng, lung linh diễm ảo nét thiên đường ngự trên thế trần.

 

Hồ thủy điện Đa Nhiêm  

 

Đập Đa Nhim

 

Đèo Ngoạn Mục dịch ra từ tiếng Pháp thuộc Miền Nam Cao nguyên - Trung phần, Việt Nam, còn gọi là đèo Sông Pha. Đèo Ngoạn Mục nối Thị trấn Đà Lạt, Tỉnh Tuyên Đức với Thị-xã Phan Rang, Tỉnh Ninh Thuận. Dọc theo những sườn đồi của đèo Ngoạn Mục có hai ống nước khổng lồ chạy từ đập Đa Nhim xuống chân đèo, trông ống nước giống như cặp rắn song sinh giát bạc, hai ống nước long lanh quái dị suốt tháng năm vắt mình treo lơ lửng trong khu rừng xanh um bí hiểm. Mười rất kính phục các kỹ sư tài ba lỗi lạc, những người thợ kiên cường đã "tạc" vào không gian, thời gian bức tranh tuyệt hảo. Một công trình đại, phong phú, họ không ngại gian khổ, sức lực, chỉ âm thầm lặn lội vào rừng sâu, núi thẳm. Họ đầy can đảm có khả năng chinh phục thiên nhiên, xây dựng kiến thiết quê hương Việt Nam ngày thêm tiện nghi, giàu đẹp, hùng cường. Hai ống bạc nầy đã, đang, và vẫn cung cấp nước cho vùng phụ cận miền đông Trung phần, nước vô tận, trong mát ngọt ngào. Nơi đây có đường sắt xe lửa Đà Lạt – nối liền Phan Rang. (Tháp Chàm) dài ngót 84km. Xe lửa vận chuyển thường xuyên, khi ta nhìn con tàu lửa mệt nhọc leo lên từng nấc trên ngọn đèo cong cong, tàu lừ đừ lên tít trên núi cao, cao vút... xe lửa thong thả cố leo lên cao, mà không bị tuột dốc, là bởi do xe lửa có lắp những đoạn móc sắt tinh vi dưới lườn xe. Mình cảm thấy kỳ diệu thay óc sáng tạo của con người (tàu lửa chạy từ năm 1928 mãi đến năm 1964, mới ngưng hoạt động).

 

KRÔNG PHA an lạc dưới chân đèo Ngoạn Mục, có nhiều hàng quán tấp nập kẻ ra người vào. Cơm canh nóng hổi, thơm phức mùi chiên xào nấu nướng, khiến khách thập phương cảm thấy đói lòng, ghé lại nghỉ mệt và dùng bữa, họ nhâm nhi tách cà phê thơm loại thượng hảo hạng của: cà phê moka, mít, chồn. Hoặc uống ly trà bốc khói thơm lừng mùi nỏn trà La Ba, Bạch Mao. Cầu Đất, Đơn Dương, Blao, vân vân...

 

Xe chạy qua gần vùng quốc lộ 1A và 27, thì triền núi từ từ thấp dần xuống đồng bằng và vùng ven biển, xuôi về Đông Nam. Gần cạnh vùng nầy là suối Vĩnh Hảo, nơi cung cấp nước nóng 30/độ C, tinh khiết ngọt ngon. Hòn Lao Câu, Giành Sơn, nằm trên đường xuyên Việt, tiếp giáp NINH THUẬN.

 

 

2.  Từ đầu Tỉnh NINH THUẬN tới cuối CAM RANH

 

 

Quanh phụ cận vùng NINH THUẬN có: Đá Chẹt, Mũi Nhỏ, La Gàn, Hòn Rơm cách Mũi Né 4 km. Những rặng dừa xanh um đầy quả rợp bóng mát. Đồi cát vàng luôn thay hình đổi dạng mỹ lệ dưới sức gió đẩy đưa, tiếp nối trùng trùng… ánh lên dưới bầu trời đầy cát mịn, êm êm. Mũi Né hoang sơ nguyên thủy, nhưng phong thái đẹp tươi, trong lành, thoáng đạt dưới nắng ấm, bãi cạn thoai thoải, nước sạch, trong veo. Cà Ná, sông Mê Lam, sông Sắt, sông Chá, sông La, lại còn có tên rất lạ: sông Quao, Cà Đú, sông bà Râu, là những danh lam thắng cảnh tuyệt vời trong quê hương Việt Nam. Dẫu có hững hờ, Mười vẫn ưa nhìn ngắm và trầm trồ khen phong cảnh quê hương tuyệt mỹ, đất nước mình độc đáo giàu chất thơ, lãng mạn, và trí tưởng tượng phong phú đa cảm nơi mỗi người.

 

 

Tháp Chàm

 

Khu tháp Chăm Pa: Tam Tháp, Hoà Lai, Pô Rô Mê, và Pô Tầm ở Phan Rí. Trong các tháp kể trên, có Tháp Chàm Poklong Garai, Tỉnh Bình Thuận cách PHAN RANG khoảng 2 ki lô mét, đẹp và hùng vĩ hơn hết. Tháp nằm trên ngọn đồi trọc oai dũng uy nghi, lồng lộng, trầm mặc u hoài mà sừng sững trang nghiêm giữa nắng trưa khuya chiều. Dưới chân đồi ta đi lên chín hàng cấp cao cao, qua cổng chào xây đá hình vòm cung. Đứng trên sân cao nhìn xuyên qua lũy cây xương rồng có bụi gai nhọn to xù xì, là ruộng vườn làng mạc trải dài xa xa bao bọc cả ba phía, còn một phía nhìn ra biển khơi, cuốn theo nỗi sầu đau xô sóng xa tít tắp đến tận chân trời mênh mông bát ngát.

 

 

 

Ba ngôi tháp hình chóp ba tầng cao, to lớn, kiến trúc tuyệt tác tinh xảo, tháp làm bằng gạch đỏ, đất sét, đá ong. Chính diện có tượng thần Shiva. Trong tháp, ngoài bức tượng vua Poklong Garai và chiếc bàn đá, thì hoàn toàn trống trơn, rộng rãi. Vào dịp có đình đám lễ lạc, Tết nhất, như tháng Giêng âm lịch có lễ hội Rija Nưga; Poh Mbăng Yang, thì họ tổ chức lễ dưới chân tháp Pôsha Nư. Một trong hai ngôi tháp (nhỏ hơn ngôi chính điện) có để thờ bộ phận sinh dục nam & nữ, bằng đá. Tác phẩm độc đáo của Thượng Đế ban tặng cho con người hoàn mỹ nối dõi tông đường, là điều cao qúy toàn bích. Ý nghĩ mình trong sáng thì cứ thản nhiên nhìn, coi như đó là chuyện bình thường, chẳng tục tỉu, không có gì quan trọng, chả có gì mà ngượng ngùng e thẹn, không dám chưng bày ra đây nà!

 

Dân tộc Chàm có di tích lịch sử vô cùng độc đáo và huyền bí: Trong suốt chiều dài lịch sử, dọc theo dòng đời đưa đẩy, qua bối cảnh lịch sử thăng trầm, thì dân tộc Chăm có khoảng 200 năm sau Công Nguyên; từ 982 đến 1.471. Khi nước Nam bận rộn những trận chiến thư hùng, oanh liệt đánh tan giặc Nguyên từ Phương Bắc. Về phía Tây, Chiêm Thành luôn quấy phá bờ cõi đất Việt, chiến tranh Việt Chăm liên miên bùng nổ rất ác liệt. Vua Trần Nhân Tông bèn... làm cuộc giao hảo: cho công chúa Huyền Trân viễn du sang Chàm làm hoàng hậu Chiêm Thành. (“khiến cả thế giới rúng động"). Thời gian hững hờ xô sóng rớt trên nỗi sầu đau vào Kinh Thành dân tộc Chàm, mãi sau đó Chàm bị họa diệt vong. Những đêm trăng sáng, số cư dân tụ lại quê nhà thường lũ lượt lên Tháp cầu kinh, cúng tế, ca hát nhảy múa, thiết tha hoài cổ bằng điệu sáo, cây đàn truyền thống, tiếng trống bập bùng u uất vang vọng... Họ hát câu đồng dao thiết tha não nùng ai oán, để tỏ lòng hoài hương vong quốc và hoài cảm. Đoàn người Raglai, Chăm, đội thúng, mũng, vò nước đi trên con đường đất pha cát mịn đỏ vàng, đá sét, cát kết vôi, tích lũy mùn N, P2, 05, K20.

 

Với Mười thì nghĩ:

- Người ta có thể phân ly con người ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn. Nhưng không ai có thể vong bản tách bạch dòng sông, cây dừa, bụi chuối, vườn rau; (dẫu quê hương điêu linh, sầu đau) ra khỏi lòng mỗi người vong quốc nô khi vong gia thất thổ, thì họ càng khắc muôn vàn hoài nhớ, ngậm ngùi, đắng cay tức tưởi nghẹn ngào!

 

Nào Cà Rôm, Suối Cát, Phan Rang, vùng cát vàng nóng bỏng, có bao trận cuồng phong xoáy tít trên không. Nóng, gió, nắng gắt quanh năm. Đồng khô cỏ cháy, đất đai không mấy phì nhiêu màu mỡ. Tuy có nhiều sông, ba phía là rừng, một phía biển, nhưng Phan Rang luôn bị năng lượng bức xạ mặt trời chiếu thẳng, có cường độ khá cao. Dân cư đông đúc đa sộ́ buôn bán các ngành hải sản. Họ chịu ảnh hưởng thủy triều, thiên nhiên khắt nghiệt, khí hậu gay gắt, ngập nắng chói chang, bị gió vần vũ trong bầu trời luôn tung cát bụi, nóng nung người, làm rát bỏng mặt, nên đa số dân vùng nầy bị bệnh loét mắt và đỏ mắt.

 

 

 

Phan Rang có lễ hội Katê, hoặc Chabum vào tháng 8, 9 âm lịch, tại tháp Pôklong Garai. Tháp nằm trên núi Trầu, cách Phan Rang 5 km, về hướng Tây Bắc, do Simhavarman ill, xây dựng từ thế kỷ 13, để dân tộc Chàm tưởng nhớ mẹ cha.

 
BA NGÒI là miền hải tần nuôi tôm nước mặn sầm uất, chuyên sản xuất tôm hùm nổi tiếng.

Vịnh CAM RANH quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh diện tích khoảng 60km2, độ sâu trung bình từ 18 - 20m. Thủy triều vịnh đều đặn hai con nước lên xuống tương đối đúng giờ. Cam Ranh có nhiều cánh đồng cát mịn trắng phau phau, dùng làm men sứ hay thủy tinh xuất cảng là thượng hạng. Phía ngoài Vịnh Cam Ranh có một số đảo, cù lao và đất liền che chắn, thuận tiện cho việc trú bão tốt cho tàu vô vịnh khá kín gió nhờ đáy vịnh bằng phẳng là một quân-cảng tốt nhất. Năm 1905, nhiều khu trục hạm của Nga đã vào Vịnh Cam Ranh để tránh bão. Cam Ranh có nhiều kho lớn chứa máy bay, có sân bay cũng là căn cứ lớn. Khi xưa Pháp dùng nơi nầy làm cảng Hải-Quân. Có dự tính vào năm 1905 để cho hạm đội Nga trong trận Tsushima. Năm 1942 Nhật Bản dùng làm điểm chuẩn trong cuộc tấn công Malaysia. Nơi đây tàu bè đi lại dễ dàng, nơi neo bến an toàn nhất vùng Đông Nam Á. Dọc quốc lộ, từ Krong Pha chạy xuống Cam Ranh, rải rác hai bên đường là Khu Dinh Điền trù phú, chính phủ Cộng Hoà Việt Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm mới thành lập, đã nâng cao đời sống người dân tứ phương đến an cư lạc nghiệp, thanh bình trù mật.


 

 

Xe bon bon trên đường đi, bỗng nhiên chậm lại vì cơn mưa ào ạt, buốt giá, rả rích kéo dài suốt ngày. Rẽ về hướng trái, là đường vào BÌNH THUẬN, nơi nổi tiếng với đoàn thợ lặn chuyên nghề. Người ta nói "sanh nghề tử nghiệp". Thật tình Mười chẳng biết nói sao khi thấy thợ lặn từ trong biển trồi lên, mang theo những hạt trai quý giá lóng lánh dưới ánh mặt trời, họ đem giàu sang về cho gia đình và đất nước. Nhưng cũng từ nơi chốn ấy, đa số thợ lặn khi trồi lên bờ nghỉ ngơi dưỡng sức. Bỗng nhiên mặt mày họ thâm tím, rồi máu mắt, máu mũi, máu mồm ộc ra có vòi. Họ quằn quại co giật chân tay đau đớn kinh khủng. Cho đến khi linh hồn họ "lặn" đi mút mùa lệ thủy theo hà bá. Than ôi!

 

3.  Cổ THÀNH đến NHATRANG tuyệt diễm

 

Trời xám xịt, ảm đạm với từng cuộn mây đen phủ chụp lấy Cây Cẩy, xe chạy càng chậm như rùa bò khi đến *Cổ Thành, là một quần thể lục giác, có lối kiến trúc quân sự độc đáo, quy mô theo phương pháp Vauban, {do ông kỹ sư Công-binh quân sự nổi tiếng của Pháp: tên Vauban (1633-1707) tên thật của ông là Sébastien Le Prestre. Cổ Thành có hào sâu chắn bờ thành cao 3 mét rưỡi, bên trong thành đắp làm hai bậc cấp rộng và cao.

 

 

 

Ven biển Nam Trung Bộ thuộc Tỉnh KHÁNH HOÀ (thành phố Nha Trang) phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên. Nam giáp Tỉnh Ninh Thuận. Tây là sườn đông của dãy trường sơn giáp Đắc Lắc & Lâm Đồng. Biển Khánh Hòa trong đó bao gồm cả quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực đông Việt Nam, là có vị trí địa lý thuận tiện trên đường thủy & trục giao thông quốc lộ 1 A quan trọng xuyên qua mọi miền đất nước Việt Nam, khá thuận lợi. Quốc lộ 26 nối Khánh Hòa Đắc Lắc và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Ngoài ra có hệ thống xe lửa nối dài từ Phan Rang chạy xuyên qua các miền tới Cà Mau & đồng thời ra tới Bến Hải. Khánh Hòa có nhiều hải cảng và phi cảng náo nhiệt, đông đúc, đồ sộ.  

 

 

NHA TRANG tuyệt đẹp với miền cát trắng mịn đầy hấp dẫn... là một tiềm năng khá tốt mang tính chất nhiệt đới gió mùa & đại dương thông thoáng, thênh thang, bao la, mênh mông. Biển gần sát thị thành, nên khí hậu dễ chịu (so với các vùng biển khác). Phố biển thơ mộng của Tỉnh Khánh Hòa đã nở hoa đèn khi có nhiều cặp tình dìu nhau lượn ven biển: chàng Hải Quân áo xanh áo trắng hiên ngang, cùng nàng thiếu nữ mặt hoa da phấn, tay trong tay họ âu yếm cười vui trên đường thênh thang. Hợp với anh Không-Quân hào hùng, áo bay xám áo bay vàng cam cùng với em kiều diễm thủng thỉnh dạo bước thuở xuân tình, khiến thành phố biển càng nôn nao xao xuyến ngẩn ngơ thay!

 

Mưa bụi mù mù bay bay, nhạt nhòa trong bóng tối. Ngoài xa xa ngư thuyền tấp nập nhấp nhô trên sóng, những chùm đèn câu mực, nhỏ li ti, khi tỏ khi mờ. Thuyền lênh đênh trên mặt sóng, không hiểu vừa vào bến đỗ, hay đang ra khơi? Hòn Tre như bức lũy thành ngăn gió đại dương, bãi cát phẳng lì, tơi mịn dưới làn nước mát rượi. Đồng muối Hòn Khói, Hòn Hèo, Hòn Son, Hòn Bà… Hòn Yến. Hòn Tằm... vân vân…

 

Ôi sao có bao nhiêu là "Hòn"....hỉ!?

 

 

Phố thị hải dương thơ mộng, nhiều đại lộ khang trang sạch sẽ dẫn ra Xóm Cồn, Xóm Bóng, Xóm Mới. Nhà cửa, ghe thuyền tấp nập dưới ánh mặt trời. Biển xanh thẳm màu ngọc bích lóng lánh, dạt dào sóng vỗ vào mỗi buổi hoàng hôn hay bình minh. Miền cát trắng thơ mộng với đá granit, đa số cư dân là người Kinh, kế đến là dân tộc Hoa, Raglai, Gietiêng, Eđê, Tày, Chăm. Họ sinh sống trên đất cát, cồn cát.

 

Ven biển đất mặn có phèn, đôi vùng có đất xám bạc màu. Tuy thế tài nguyên biển rất phong phú cho ta nhiều hải sản quý: Sản xuất cả vạn tấn muối. Tôm giống, tôm thịt. Chim yến. Rừng Khánh Hòa có nhiều loại gỗ qúy hiếm: lim. hương, pơmu, trầm hương, kỳ nam... Khoáng sản: cát trắng, nước khoáng, than bùn, cao lanh, imenhich, đá granit. Ngoài phong thổ thuộc về nơi thắng cảnh hữu tình và du lịch. Nha Trang còn là nơi sản xuất dồi dào nhiều loại thủy hải sản, tôm giống. Trại nuôi trai trên biển lấy giống, lấy ngọc. Có những trang trại: Sản xuất đường mía, bia, nước ngọt. Thủy tinh kính phẳng. Khu công nghiệp Agar, Alginate. Công xưởng đóng tàu, thuyền, ghe.

 

File:Nhatrang la plage.jpg

 

Nha Trang có Tháp Bà, Hải Học Viện, Trường Hải Quân, quân trường Không-quân, Bãi Dâu, Bãi Cát Tiên. Viện Pasteur lớn nhất do chính bác sĩ Yersin thành lập. Ông Yersin sinh tại Pháp cha ông là người Thụy Sĩ, mẹ người Pháp. Ông Yersin lớn lên thi đậu tiến sĩ, ông viễn du đến Việt Nam, tận tụy cống hiến đời mình cho khoa học, và thành công trong việc trị bệnh dịch hạch. Ông là một trong những nhà thám hiếm đầu tiên khám phá ra thành phố Đà Lạt thơ mộng. Theo di chúc mộ ông xây đơn giản, người ta liệm ông nằm sấp, mặt ông gục xuống ôm chặt đất Việt Nam vào lòng, đầu quay về hướng biển: Alexandre Yersin – 1863 -> 1943, ở khu Suối Dầu.  Nơi miền đất Việt Nam thân yêu nầy, là quê hương thứ hai của ông Alexandre Yersin.

 

 

 

 

Tháp Bà đồ sộ xây bốn tầng, là một kiệt tác từ thời vua Chàm Harivácman, xây  năm 813 đến 817 mới hoàn tất. vào ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch, tại Tháp Bà  đây có lễ hội tưng bừng náo nhiệt đông đúc vô cùng để tưởng nhớ nữ thần Po Ino Nogar, ca ngợi mẹ tạo dựng ra xứ sở Chăm. Họ cầu xin an cư lạc nghiệp. Dưới chân tháp Bà là xóm Bóng. Hòn Chồng như một quần thể hải đảo xinh xinh, xếp lớp những khối lớn nằm chông chênh trên khối nhỏ. Trên một khối đá lớn có in dấu một bàn tay to dị thường. Tương truyền rằng: thuở xưa có một ông khổng lồ, vô tình ghé qua đây, ông ta nhìn thấy bầy tiên nữ tắm, ông ta say sưa nhìn ngắm mãi mê, nên ông ta bị trợt chân té xuống biển. Ổng liền chụp tảng đá nầy “bò” lên và trở thành “hòn chồng”. Ha ha ha!!! Mấy cô tiên hoảng hốt chui vào hốc đá, hóa ra “hòn vợ” nép mình bên Bãi Dương trải dài thật nên thơ.

 

Sau một đêm ăn cơm với thức ăn đặc sản, miền duyên hải tuyệt ngon và rẻ, hai mẹ con vào ngủ trong khách sạn Hoàng Yến. Suốt ngày ngồi trên xe chật chội, một chân thòng xuống nền xe, một chân co lên ghế, cằm tựa trên đầu gối một cách phiền não, Mười quá mỏi mệt, tê buốt. Mong sớm hết một ngày đường xa nhọc nhằn, nên vừa tắm rửa xong, leo lên giường, thì hai má con ngủ liền một giấc dài, đến năm giờ sáng, không cựa quậy.

 

 

 


4.  ĐẠI LÃNH đến BỒNG SƠN

 





Từ giã Nha Trang, xe xuôi về đèo Rù Rì, (Đại Lãnh xa Nha Trang chừng 80km). Đại Lãnh, đèo Cả, vào vùng Lương Sơn, Phong Thạnh, Hoà Huỳnh. Xe tạm dừng chân ở dưới đèo M'Drack Vạn Giã.

 
NINH HOÀ. Trại cùi Bàu Phong nhìn chéo là Núi Hòn Khô. Gió lùa lá vàng, sương tuyết phủ đầy vai bức tượng đã sạm màu với thời gian. Nơi đó tạt hình ảnh chiến sĩ Cộng Hòa Việt Nam khá cao, chiến sĩ ấy đứng trong tư thế thao diễn nghỉ, do bộ chỉ huy trường Đồng Đế xây vào đầu năm 1960. Ở vùng nầy tập trung rất nhiều loại cây dó Bầu, dó Lưỡi Trâu, dó Cam, rất nhiều trầm tích tụ chất nhựa dầu thơm đặc biệt, trầm có màu xanh cổ vịt, màu trắng vân lóng lánh, đó là lúc trầm đã biến thân thành Kỳ Nam. Người chuyên nghề đi tìm trầm ưa nói: "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc"... "Trầm nơi Vạn Giã, hương tỏa sơn lâm". Mười nghe: Có người ngậm ngãi đi tìm trầm, trầm ở trong rừng sâu xa tít tắp. Nhưng đi quá lâu ngày, họ bị lạc nhau và mất hút trong rừng. Người ấy không tìm thấy lối ra, lâu ngày lâu năm… thì móng tay móng chân dài ngoẵng, râu tóc mọc xồm xoàm, họ ngơ ngơ ngáo ngáo… và những người ấy bỗng hóa thành cọp. Ui! Nghe sao hoang đường, huyền thoại lạ lùng, sao ớn lạnh thế không biết?!

 


 

 


Đúng là phong cảnh tuyệt tác, hữu tình. Bầu trời vần vũ mây xám đục, bàng bạc, hơi nước đan trong sương giá mờ mờ. Núi rừng trùng trùng điệp điệp, khí trời toả lạnh mát rượi, man mác, phơn phớt vàng, đó đây thoang thoảng mùi thơm thơm thật dễ chịu. Xe chạy chậm quanh co trên con đường hẹp, trơn trượt như bôi mỡ. Má tựa đầu vào hông xe chật như nêm, chân tay co quắp, má ngủ gà ngủ gật. Nhìn mẹ già thiêm thiếp mệt nhọc, lòng Mười trào dâng nỗi buồn phiền, và sự ân hận dày vò, khiến nàng ứa nước mắt. Đèo Giã trùng điệp ngút ngàn, núi non cheo leo uốn lượn quanh co. Mưa tầm tã, gió lồng lộng suốt đến Tu Bông. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, bên trái là dốc đá núi đèo, cheo leo hiểm trở, bên phải là đại dương mênh mông bát ngát biếc xanh lấp lánh dưới ánh bình minh rạng rỡ, hay hoàng hôn đều tuyệt diễm. Làng mạc nên thơ. Nhà cửa bao bọc bởi hàng thùy dương, những hàng dừa, hàng cau chen cánh, ven bờ có hàng trăm ghe thuyền nhấp nhô đậu san sát. Cồn cát trắng tưới nắng vàng hanh, phơi đầy loại lưới cá, trông xa như những mạng nhện khổng lồ: Lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Văng, lưới Rẽo. Làng nầy chuyên về nghề: "Chồng chài. Vợ lưới. Con câu" trên những cánh buồm trắng, nhỏ li ti như hạt đậu phụng, bồng bềnh trôi đi trôi về. Ngư thuyền có thân hình vạm vỡ, cánh tay họ lực lưỡng hầu tung vó bắt cá; giống như vị thủy thần lão luyện, từng trải giang hồ trên biển cả.

 

 

 

 


Phú Sơn, Phú Hiệp, Đông Tác. Tuy Hoà là một Tỉnh miền Nam Trung bộ, trên tọa độ 12 độ 53’ - 13 độ14’ vĩ độ bắc, l08 độ37’ - 109 độ l3’ kinh độ đông, trực thuộc tỉnh Phú Yên. Nhạn Tháp cao khoảng 20m xây bên bờ bắc sông Đà Rằng, tháp Nhạn có hình tứ giác bốn tầng. Chân tháp bệ vệ nhưng khi càng lên cao, thì chóp tháp càng thu nhọn nhỏ giống hình chóp nón. Cửa hình vòm cung nhọn, có tượng hình Linga, hơi giống tượng Pônagar, đầu quái vật ở trên đỉnh, như một phế tích u trầm. Dọc chiều dài phương tây, có dãy núi thấp, nhiều đồi xen kẽ ruộng đồng, cây cỏ xanh um, nhiều cồn cát trắng. Tuy Hòa có ba sông chính: Sông Ba. Sông Kỳ Lô. Sông Bàn Thạch. Trong đó sông Đà Rằng rất dài và đẹp bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Sơn chảy qua các lưu vực cao nguyên Komtum, Đắc Lắc, Sơn Hòa... lượn quanh các vùng sau đó đổ ra cửa biển Đà Rằng. Sông rộng mênh mông có cầu gỗ Đà Rằng (sông Ba) dài nhất trong các cầu, cầu dài ngót cây số, có 21 nhịp, luôn tấp nập người qua lại, xe cộ đông đúc. Cầu nối các vùng Hoà Đa, Chí Thạnh, La Hai, Phước Lãnh, Vân Canh.


Lưu lượng thủy triều không đều, lúc mạnh lúc yếu, theo khí hậu miền đại dương vùng nhiệt sáng và nắng ấm dồi dào độ 2000/2700 h/năm, tổng số lượng bức xạ 230 kcal/ cm3/năm. Gió mùa nóng, mưa ẩm quanh năm nơi vùng sông Cái, sông Bàn Thạch. Lại có các: Hòn Lao mái nhà. Hòn đảo Cô, hòn Dứa, hòn Than, hòn Chùa. “Hòn” ơi sao lại lắm hòn thế! Có tảng đá khổng lồ Hòn Vọng Phu trên cao độ 2.064m, đơn độc, đá Vọng Phu đứng chênh vênh lắc lẽo nhô một phần chân ra biển, sừng sững trên đỉnh núi cô tịch điệp trùng, chập chùng núi tiếp núi cao chót vót. Tục truyền rằng thuở xưa khách chinh phu, vì "xã tắc lâm nguy, thất phu hữu trách". Vì nợ nước quên tình nhà, chàng đi chinh chiến ngoài biên ải, quyết giữ gìn bờ cõi sơn hà gấm vóc. Chinh nhân hẹn sẽ trở về, khi giặc hết nhà yên:


Cái cò lặn lội bờ sông.


Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.


Nàng về nuôi cái cùng con.


Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.


Chân đi đá lại dùng dằng.


Nửa nhớ Cao Bằng nửa nhớ vợ con. (ca dao)

 
Chinh phụ tháng tháng năm năm ôm con lên núi, mòn mõi khát khao đơn điệu ngóng trông chồng dãi dầu phong sương vẫn biền biệt. Nước mắt chinh phụ tuôn trào suốt ngày đêm thấm đẫm toàn thân. Nàng luôn dặn dò chồng:


Anh đi em ở lại nhà.


Vườn rau em tưới mẹ già em trông.


Anh đi em ở lại nhà.


Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.


Lầm than bao quản muối dưa.


Anh đi anh liệu chen đua với đời.


Chim có đôi có bạn.

 
Hãy xem cặp nhạn làm gương.


Đứng làm người trong đạo tao khương


Thuỷ chung như nhứt giữ đường ngãi nhân.

 

 
Thời gian dài đằng đẵng xô sóng trên luống tóc sầu bạc phơ, nàng sương phụ đã hoá thân thành đá. Ôi! Lòng người vợ hiền Việt Nam thủy chung, bạc phơ mái tóc vẫn sắt son suốt kiếp trông chờ, ấy là tấm gương sáng chói qúy giá vô ngần.


Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc.

 
Con chàng còn trứng nước thơ ngây.


Có hay chàng ở đâu đây?


Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng. (ca dao)

 
Đại thi nhân Nguyễn Du có lời thơ trĩu tình người với nàng Tô Thị:


Thạch da, nhân da, bỉ hà nhân.


Độc lập sơn đầu thiên bách xuân.


Vạn kiếp điều vô vân vũ mộng.


Nhật trinh lư đắc cổ kim thân.


(Đá chăng? Người chăng? Đó là ai?


Đứng sững đầu non nghìn năm rồi.


Muôn kiếp mây mưa không vướng mộng.


Lòng son nay trước trọn bao đời).

 
Đèo Cù Mông luôn hoang vu, trầm mặc, cô liêu và u ám, dẫn đến Tháp Đôi (ở Xã Đống Đa). Gồm có hai tháp: Tháp Một cao 18m; tháp Hai cao 22m ; đều là hình chóp nón.




Qui Nhơn thuộc Tỉnh Bình Định có biển xanh trời rộng và thành Chà Bàn xa khoảng 26 km, về hướng tây bắc, nơi kinh đô vương quốc Chàm xưa, với vua Yangpuku Vijaya ngự trị giữa các tượng voi, rắn, cùng nhiều tượng dị hình khác. Thành Chà Bàn xây bằng đá ong, đường đi lát đá hoa cương. Vào thời triều cuối cùng vua Yangpuku Vijaya (Chàm) Còn gọi tên là Thập Tháp, tháp Cánh Tiên có nhiều hình quái vật, tượng rắn đá trắng, voi đá. Địa hình nghiêng nghiêng, hàm lượng đất phù sa thấp, bạc màu gần chân núi, quanh đầm, vịnh, trôi dần ra bờ biển đông. Bình Định nằm trên trục đường sắt xuyên Việt & đường giao thông quốc lộ 1 quan trọng, phía đông giáp biển đông, phía tây giáp tỉnh Gia Ray, Nam giáp Tỉnh Phú Yên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi. Bình Định có nhiều tài nguyên thủy sản: rong câu chỉ vàng. Các loại cá nổi & cá đáy, cá ngựa, tôm, tôm hùm, yến sào, cua Huỳnh Đế qúy. Không những Bình Định phong phú về cá tôm mà cũng là nơi có: nước suối khoáng, cao lanh, đất sét, đá Granosinite đỏ, Biotite vàng, quặn Titan ở Quy Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ... Bình Định có thắng cảnh Ghềnh Ráng đẹp là nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử. Bãi tắm Hoàng Hậu toàn đá xanh nhỏ to xếp từng lớp, nhìn xa như bãi trứng chim khổng lồ. Suối Tiên. Bán đảo Phương Mai, Thị Nại. Thuở xưa, Vua Bảo Đại đã cho đã xây nhà nghỉ hữu tình trên khu đất cao, trông ngôi nhà giống con tàu nhấp nhô lướt sóng đại dương. Tại làng Thị Tứ có lò rèn nổi tiếng. Nam nữ Bình Định thích múa điệu trống vỏ truyền thống Tây Sơn. Con nhà vỏ nổi danh với câu thơ lưu truyền:

 
Ai về Bình Định mà coi,


Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

 

 


Phú Tài. Cánh đồng Phù Mỹ bao la, đầm Trà Ô. Mười thấy ngọn Chóp Chài cheo leo, hòn Cao quay ra biển, vô cùng đơn điệu trước biển cả mênh mông.
Những nơi nầy nằm trên vị trí giao thông khá thuận lợi về hai mặt: đường biển và đường bộ. Núi đồi ngút ngàn, chen lấn đồng ruộng ven núi. Nơi nổi danh ba vị anh tài áo vải cờ đào Lam Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Họ sinh ở làng Kiên Mỹ. Hoàng Đế Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung tài ba, đầy mưu lược, đã cởi voi vào cửa Bắc đại thắng quân Thanh ở Phú Xuyên, Hà Hồi, Đống Đa, khiến Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết (vào mùa Xuân 1789), đại thắng lẫy lừng. Ngọc Hân công chúa mười sáu tuổi, con gái thứ hai mốt của vua Lê Hiến Tông, vâng lệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ vương quyền. Thế mà… Nguyễn Huệ lẫy lừng như thế mà sau nầy vua Gia Long cho khai quật mồ vua Quang Trung mà phơi nắm xương khô (của vua Quang Trung), để trả mối hận thù rối rắm thuở xa xưa. Thù chi mà thù dai. Thù ghê gớm. Thù dễ sợ hỉ!

 
Đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, xe rung lên từng hồi vì đường đi bị giật mìn, xe xóc mạnh qua ổ gà, gò mô, đất đá sụt lở. Xe đến gần vùng đảo Cù Lao Chàm, Hòn Ông, Hòn Dài, Hòn Tai nơi có nhiều khỉ (ui, lại có một lô một lốc các "hòn"!). Dọc quốc lộ, vô số hàng dừa chen cánh những hàng dừa ngã nghiêng theo chiều gió đại dương rì rào sóng vỗ.

 
Trời trở cơn gió bão mịt mù. Bóng tối sớm bao trùm vạn vật, suốt ngày không chút ánh sáng mặt trời. Hai bên đường, cư dân bán đầy hàng quà bánh trái, hàng nước, hàng cơm, người ra vào đông đúc dưới cơn mưa như trút, gió rét căm căm. Nào là ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, thổ phục linh, phong kỷ, đều có sản xuất tại xứ nầy. Xe bị bể bánh, phải ngừng lại hơn nửa ngày, để thay bánh xe, sửa chữa vài thứ, và vô dầu nhớt, không hy vọng xong ngay. Nhân đó, vài cụ già ở địa phương, tuổi già không sao đếm nỗi thắng năm trên những lằn nhăn lún sâu vầng trán hói. Họ đến đề nghị với hành khách trên xe:


- Ai muốn đi thăm di tích Hận Đồ Bàn, nơi kinh đô Dân Tộc Chàm. Thì bớt xén vài đồng, thuê hướng dẫn viên đưa lối dẫn đường.
Nghe thế, khoảng mười mấy người trẻ ngồi chung xe góp tiền, đưa lão trượng, họ cùng Mười leo lên ba chiếc xe ngựa cà rịch cà tang đi du hí. Muốn vào thành Đồ Bàn, Mười phải đi qua cửa chánh. Tức cửa Vệ. Vã lại xe khách bị hư chỉ cách thành nầy độ non cây số. Thành có ba cửa nữa là: Cửa Tả, cửa Hữu, cửa Bắc ở hậu cung. Thành có ba lớp: Thành ngoài, thành trong, tử cấm thành. Thành và tháp đắp toàn gạch tàu nung đỏ, đất sét, đá ong, đá phiến, thỉnh thoảng điểm thêm ít đá tai mèo, dưới chân cột kê toàn đá tảng. Tháp Cánh Tiên nằm trong thành Đồ Bàn, xưa gọi là tháp Vijaya. Quanh vùng nầy còn sót lại ít di tích tháp Bạc, tháp Bình Lâm, chùa Nhạn Sơn. Tứ bề cây đan cây, cỏ lướt cỏ, cổ thụ to sù sì chằn chịt, rậm rạp um tùm. Cảnh vật điêu tàn hoang phế in trên từng bậc thềm loang lổ, mốc meo. Cạnh bức tường thành ngôi tháp hư hại đổ nát mấy nơi chưa được trùng tu, trông càng tiêu điều hoang vu, hết sức đơn điệu buồn bã.

 
Hận Đồ Bàn và người đẹp hong mái tóc huyền, giặt lụa bên ven sông vang bóng một thời thuở ấy. Gợi nhớ ngày xưa quan hành khiển Trần Khắc Chung vẻ tranh công chúa Huyền Trân. Ông được triều đình trao bức tranh cho Chế Bồ Đào mang về Chàm. Có lẽ Huyền Trân và Khắc Chung: Một già một trẻ chưa hẳn nảy sinh tình cảm tâm đầu (như đồn đãi) nhưng họ kính trọng nhau qua phong cách. Khi Chiêm cắt hai châu Ô, Lý dâng Vua xứ Việt, để làm sính lễ, (do quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài trấn giữ). Thì bờ cõi, dân tộc, được mang ra giao hảo cho hôn ước Chăm Pa và người đẹp mặt hoa da phấn nghiêng nước nghiêng thành đất Việt. Rồi Chế Mân chết. Theo phong tục Chiêm, thì hoàng hậu phải hoả táng theo thi hài Vua. Nhà Việt liền sai ông Khắc Chung tức tốc sang Chiêm, dùng tài trí và mưu lược để cướp Huyền Trân. Ông đưa công chúa Huyền Trân trở về kinh thành Thăng Long an toàn, vào năm 1308. Người Maoris khi chết, họ cho người phối ngẫu cùng thủy táng xuống "thủy mộ quan", mong thân xác tắm mát, trôi về phương tây, thuộc quần đảo Hawaiki an nghỉ. Người chết rồi, thôi cũng cho ùm tủm xuống nước "mát mẻ" đi, cũng đành. Đằng nầy, bên Chiêm bắt người sống sờ sờ, sống nhăn răng mà phải trợn trừng mắt hoả táng theo, thì "nóng hổi và khủng khiếp", chịu sao thấu! Vương quốc Chế tan rã từ năm 1470. Mười đã học lịch sử nầy, nỗi sợ hãi như in vào trí.

 
Xứ dừa Tam Quan và Chế Bồng Nga, ngày ngày cùng đoàn tỳ nữ ca múa thuở nào, bên bờ sông Phú Yên. Trà Ổ có núi Lồi, dân cư sung túc. Phù Cát có yến sào, cua huỳnh đế, có đá granosinite đỏ, có mỏ cao lanh, đất sét. Người ta ưa bày bán các vật lưu niệm bằng đất nung, khá xinh. Khánh Phước, Phù Mỹ, Văn Phú, Bồng Sơn, đèo Nhông, đèo Phù Cư. Phía Đông là núi Chóp Chài, nhiều rừng dừa to cao, hàng hàng lớp lớp tre nứa nghiêng mình ra giữa lộ, như đón chào khách lữ hành. Cơm Bồng Sơn nổi tiếng ngon, nóng, đậm đà hương vị quê hương, và rẻ nhất, con tôm to tươi rói, con cá no tròn đang bơi lội trong hồ, gà vịt luộc nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, ngon ơi là ngon tuyệt! Chủ quán niềm nở vui vẻ, chào đón khách với khăn nóng, khăn lạnh, thay đổi mỗi mùa. Hàng quán gọn gàng sạch sẽ. Câu mời chào đon đả, ân cần lịch sự, người nghe dù không đói bụng, ngại trời mưa gió, họ vẫn thích làm vui lòng chủ quán, mua giúp các món quà đặc sản.

 

 

5.   SA HUỲNH đến ĐIỆN BÀN HỘI AN

 

 

C:\Users\me\Pictures\11 QUYNHON Q.NGAI.HOI AN.DANANG\Tuy Hoacau Da Rang.jpg

 

Từ ranh-địa Tuy Hòa về hướng Bắc đi Sa Huỳnh:

 

C:\Users\me\Pictures\11 QUYNHON Q.NGAI.HOI AN.DANANG\SA HUYNH (QN).jpg

 


Bãi biển SA HUỲNH thuộc huyện Đức Phổ, nằm sát quốc lộ 1A cực Nam của Tỉnh Quảng Ngãi. Thị xã cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 60 km. Dân cư hiền hòa an vui sống đời bình dân mộc mạc với ruộng đồng. Đây là vựa muối quan trọng ở miền Trung. Biển Sa Huỳnh rất đẹp gió lùa sóng nước mênh mông, trong veo, bãi cát dài khoảng 6 km cong cong như hình lưỡi liềm, có màu vàng óng ánh tơi mịn, độ dốc thoai thoải, cùng hàng thùy liễu reo vui trong gió lao xao.


C:\Users\me\Pictures\11 QUYNHON Q.NGAI.HOI AN.DANANG\Sa Huynh venbien.jpg

 

 

Sa Huỳnh có ghềnh đá Châu Me, Đảo Khỉ, là một thắng cảnh nên thơ… *Thủy *Thạch - *Đức Phổ - *Thạch Trụ - *Mộ Đức; có nhiều đồn trú của quân nhân Cộng Hòa Việt Nam. Quân nhân đỉnh đạc nghiêm trang mặc sắc phục chỉnh tề. Họ không hổ thẹn là dòng dõi con cháu đức vua Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo… oai dũng cỡi voi đi đánh tan quân Mông Cổ xâm lăng, họ đã chiến thắng lẫy lừng.


Cậu lính là cậu lính ơi!
Tôi thương cậu lắm ...
nắng nôi thương chàng.

Lính nầy có vua có quan,
Nào ai bắt lính cho chàng phải đi? (cd)


Hay là:


Ba năm trấn thủ lưu đồn.
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn.
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc măng mai.
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.

Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. (cd)

 

 

 


Phu Nhơn thuộc phủ lỵ Sơn Tịnh cách xa QUẢNG NGÃI ba kilômét. Phía bắc Quảng Ngãi giáp Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông, Nam giáp Bình Định. Quốc lộ 1A và quốc lộ 24 giao tiếp tại Quảng Ngãi như chiếc xương sườn, nối liền các Tỉnh với nhau cùng: sông, biển, núi Gò Tăng ở Sơn Hà nhấp nhô, núi Rết và đình Cà Đăm ở Trà Bồng, đỉnh Ba Tu ở huyện Ba Tơ.

C:\Users\me\Pictures\11 QUYNHON Q.NGAI.HOI AN.DANANG\quangNgai 13 SUOI xenbay TraBong.jpg 

 

Suoi Xen Bay- Quang Ngai

Tỉnh Quảng Ngãi có ba con sông chính là: sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông Vệ. Quảng Ngãi bắt đầu có nhiều công trình kiến thiết xây dựng trường ốc, công sở, chùa miếu, nhà cửa dân cư khang trang hơn. Ngoài dân bản địa người Việt (Kinh) Quảng Ngãi còn có sắc dân Hrê. Cro. Ruđăng thường sống rải rác trên huyện Nghĩa Hành, Minh Long...v.v...Quảng Ngãi còn được Trời phú cho: Hai mỏ Granit Đức Phổ và Trà Bồng. Mỏ Graphit, mỏ Silimanit ở Sơn Tịnh. Mỏ than bùn Bình Sơn. Có ba mỏ sắt: Văn Bàn, mỏ sắt núi Võng, và mỏ sắt núi Đôi đều ở Mộ Đức. Mỏ đồng Ba Tơ. Mỏ vàng rải rác ở các huyện thuộc Tỉnh Quảng Ngãi. Quặng Bônit Bình Sơn. Đặc sản nổi tiếng ở Quảng Ngãi là: Mạch nha, đường phèn, đường phổi, kẹo gương. Quế. Điều. Ca cao. Song mây. Mật ong. Trầm hương. Sa nhân. Muông thú...


Dưới biển có nhiều tôm hùm, tôm sú, tôm bạc, cua xanh, cá song, cá mú, cá nước lợ, cá nước mặn qúy hiếm. Họ có ngón nghề gia truyền mạch nha, đường phèn, đường phổi rất độc đáo. Đặc sản trên nổi tiếng có lẽ do nhờ... dưới chân núi có hàng dương liễu chạy dọc theo con đường xoắn ốc để đi lên đỉnh núi Thiên Ấn bằng phẳng rợp bóng mát. Và con sông Trà Khúc nên thơ, trong trẻo uốn lượn qua làng mạc xanh tươi và trù phú. Nước róc rách chảy dưới chân cầu, ghe thuyền qua lại chở nhiều khoang mía, khoang dừa, khoang thuyền chứa nhiều lu hủ lỉnh kỉnh trôi đi trôi về trên sông nước chập chùng.
Đây là trạm xe đò đậu lại cho lữ khách dừng chân tạm nghỉ qua đêm. Người chủ hiếu khách lịch thiệp đon đả giới thiệu các món ăn đặc sản. Lữ hành ăn cơm tiệm xong, chủ quán sẽ mời mọi người vào phòng trọ tắm rửa và ngủ nghỉ không tính tiền! Nghe mà phát thèm! Bốn khất sĩ ni cô mặc áo vá thụng vàng, đầu cạo nhẵn bóng, mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm niệm Phật. Họ đi chân đất, đôi bàn tay trắng thò ra ôm chiếc hộp nhôm. Thỉnh thoảng họ nhích đi từng bước trên phố chợ ồn ào náo nhiệt. Ngồi trên bến chờ sang xe đi Đà Nẵng, Mười thấy các em nhỏ trên vai đeo giỏ xách cói, lon ton chạy đi chạy lại, các em inh ỏi chào mời khách:


- Chim mía Phú Phổ.
- Cá Bống sông Trà.
- Kẹo Gương Thu Xà.
- Mạch Nha Mộ Đức.
- Bà con ơi! Ghé lại mua dùm cháu. Mua đi mua đi!


Đại Lộc - Bình Thạnh - Bình Sơn - Trị Bình - Núi Thành - Diêm Phổ đã lùi lại thật nhanh khi đoàn xe lướt qua. Trên những cánh ruộng bát ngát, xa xa từng tốp một có người chăn vịt kéo nghiên vành nón lá, co ro trong chiếc áo lá tơi che mưa rơi gió bấc. Trên đồng ruộng chỉ còn trơ cuống rạ có muôn ngàn chú vịt cổ lùn, có những vòng khoan tròn trên cổ đang cúi đầu xuống ruộng. Bao nhiêu là vịt, ngan, ngỗng, cò… con bay lên, con đáp xuống, con rỉa lông rỉa cánh, hòa lẫn vào nhau đứng nằm lao nhao; tạo thành một bức hoạt cảnh sống động, thú vị như cò với vịt cùng chung dòng họ. Chúng không tị hiềm, không tranh chấp từng món mồi béo bở! Khi xe chạy sát men bờ ruộng, má chỉ cho Mười biết phân biệt: Cò Đúm lông đen, trắng, cẳng xanh. Cò Ngà lông trắng, tròng mắt màu vàng, cẳng đen. Cò Rán lông vàng, mỏ sọc dưa, cẳng trắng. Cò Quắm mỏ cong, cao lêu khêu. Cò Lép nhỏ con. Cò Sen lông trắng, cẳng, mỏ, mắt, là màu đỏ. Tóm lại trông cò Sen là đẹp nhất.


 


Trời càng nặng hạt mưa khi xe đến Tam Kỳ. Tiết trời mùa đông ở miền Trung thường mưa dầm gió bấc rất lạnh lẽo, lạnh thấu xương. Có mấy người vừa lên xe, họ vấn điếu thuốc to bằng ngón tay cái. Họ nói hút như vậy, mới thấy “đã điếu và ấm bụng”. Người ta ưa hút thuốc lá vấn nguyên nửa ngọn, lập bập điếu thuốc nguyên ngày, ít khi rời trên môi cho đỡ lạnh. Thói quen hút thuốc trong mùa đông rét mướt đó, thành ra ghiền mùi thuốc lá Cẩm Lệ. Đôi khi hút xong điếu thuốc, thì họ bật ngửa tại chỗ mà “say ke” vì Cẩm Lệ nặng kí lô nhất trong dòng họ nhà thuốc lá, được sản xuất từ An Mỹ, Phú Cang, Trà Kiệu, Nông Sơn...


Tại vùng nầy có tháp Chăm Pa hình bát giác, tên gọi là Bằng An, ở xã Điện An, Điện Bàn. Vùng Quảng Nam có yến sào, đậu khấu, đồi mồi đặc biệt quý. Nơi đây cụ Phan Chu Trinh quê ở Tiên Phước, Quảng Nam, cụ có biệt hiệu là Tây Hồ trong phong trào Duy Tân, cụ chống cự bọn cường hào ác bá, đã hà khắt bóc lột dân lành vô tội, cụ chống siêu cao thuế nặng. Thế nên cụ bị triều đình Huế đày ra Côn Đảo, ba năm sau cụ “bị đày đi Pháp”.


Má và Mười đi Hội An thăm chị Huyền dưới cơn mưa dầm ảm đạm màu xám u tối, giá rét căm căm. Ngày và đêm đan vào nhau, bầu trời nhạt nhòa mưa bão, trông càng thê lương buồn thảm. Ba ngày hai đêm, vật vã trên chiếc xe chật như nêm. Đường dài vách đứng cheo leo, núi non hiểm trở, biển khơi mù mịt, sông nước mênh mông. Sự cực nhọc trên tuyến đường dài, làm thân xác hai má con rã rời, ủ bơ phờ, như con mèo già thấm nước trước gió bão.

 
Mười quặn xiết niềm đau đớn, sự nhọc nhằn cùng cơn vùi dập tinh thần, và tình yêu, khiến nàng chết sững trên suốt một phần tư con đường cái quan nầy. Quả thật Mười rất đau buồn khi nhìn má lim dim mắt và im lặng chịu đựng sự cực nhọc, vất vả vì con. Một đời má lam theo chồng nuôi mười người con. Có lẽ má vẫn khổ cực suốt kiếp tần tảo, không ngơi nghỉ. Có khỏe chăng là khi hai bàn tay má buông xuôi, đôi mắt đã mất vẽ nhìn. Dù thế nào chăng nữa, má vẫn thương con, má không kêu than quở trách, má sẵn sàng tha thứ. Lòng má từ ái bao dung, nhân hậu, khiến Mười vô cùng ân hận, và cắn rứt lương tâm. Má giống con gà mẹ giăng rộng đôi cánh, xù bộ lông ra để bảo vệ ôm ấp đàn con non dại, yếu ớt.


oOo


Từ hướng biển Đại Lãnh ra Hội An, con đường luôn trơn trợt, càng gập ghềnh hơn vì có nhiều nơi đường bị đắp bờ mô, hào chông, bãi lầy, hố đất, khách phải xuống xe đội mưa lội bùn mà lần bước. Thân thể nảy lên dập xuống, theo từng nhịp xe giồng xóc lắc lư, mọi người phập phồng lo sợ hiểm nguy sẽ ập đến. Chẳng biết có an toàn về đến nhà!? Hai má con vội vã về quê, lo chuẩn bị Tết nhất. Không ai là không lo, ít nhất năm bảy ngày đầu năm, tươm tất, chu đáo. Trước tiên tưởng nhớ ông bà, cha mẹ họ hàng quá cố, sau sum họp đại gia đình. Thăm viếng chúc tụng nhau, lời nồng thắm tốt đẹp nhất. Thế nên, dù xa xôi bận rộn cách mấy, họ vẫn trở về bên mái gia đình, trong ngày xuân mới.


Đối với Mười, vì mang trong lòng mối ân hận, buồn đau ray rứt. Tết đến hay Tết đi, chỉ đơn điệu, tẻ nhạt, trống vắng, xót xa, ân hận dày vò, đáng hỗ thẹn. Thôi, ta cứ trở về quê chúc xuân. Thế cũng đành.


6.  HỘI AN tới ẢI VÂN QUAN

 

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1341623489.jpg


Tam Kỳ, Vĩnh Điện. Quảng Nam có núi Bát Tiên, thác nước Cổ Cò, Hòn Kẽm. Dân địa phương thích trồng dâu nuôi tằm. Hội An nổi tiếng là cửa ngỏ mậu dịch tốt nhất, thuận đường biển quốc tế từ Đông Nam Á lên Đông Bắc Á. Từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương. Một hải phố đặc biệt về tơ lụa ở thời kỳ cực thịnh. Hội An vừa cổ kính vừa tân thời, phố thị nằm gần cửa Đại, rừng phi lao ngút ngàn lộng gió. Rừng dừa Cẩm Thanh trĩu trái ngọt lịm. Duy Xuyên ở quốc lộ 1, có cổ thành Chiêm quốc Mỹ Sơn, nằm bên sông Thu Bồn nước trong mát, dòng sông êm đềm xuôi chảy đến chợ Hội. Có lăng hoàng hậu Đoàn thị Ngọc. Ven thành là làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà Quế, làng mộc Kim Bồng, làng yến Thanh Châu, làng Mực. Quế Sơn có những mõm núi mica… Vân vân...

ghe thuyen tinh buom


Phố Hội An có nhiều cây cổ thụ mọc lâu đời. Nhà gạch cũ thấp lè tè, đầy rong rêu bám phủ trên mái nhà tường gạch xây uy nghi, đồ sộ. Nhất là khu Phố Cổ Hội An, cứ vào đêm l5 khi trăng sáng treo trên đỉnh đầu, vầng trăng tròn như chiếc dĩa vàng ai vừa ném vào không trung, thì mỗi tháng ở Hội An dân phố cổ tắt hết điện đóm, trước mỗi hiên nhà họ treo lồng đèn (thắp nến hoặc điện đỏ) đủ màu sắc trông rất đẹp. Dưới nước suốt dọc hai bờ sông họ thả lồng đèn giấy lung linh lững lờ chập chùng trôi. Người dân thị thành phố cổ hầu hết mặc áo dài, họ an hoà phong lưu ngồi trước mỗi hàng hiên rộng trên thềm nhà, dưới ánh trăng rằm sáng vằng vặc, họ vui vẻ chơi các loại cờ, kể chuyện cổ tích, hoặc mời nhau những món ăn đặc sản… như bánh tráng đập, cơm gà Hội An, nhất là món cao lầu nổi tiếng. Ôi bức tranh diễm tuyệt thật nên thơ và thanh bình huyền diệu cảnh đào nguyên biết bao!


hoi an 2

Hội An có nhiều đình, chùa, am, miếu huyền bí, kiến trúc tựa chùa tháp mái cong, sơn son thiếp vàng. Cột lim chạm trổ hình phượng đầu rồng. Cầu gỗ cong cong sơn đỏ sơn vàng. Đâu đâu cũng thấy lung linh ánh đèn nến hiu hắt, hương trầm tỏa khói bay nghi ngút. Thành phố đậm đà di tích lịch sử, do chúa Nguyễn Hoàng xây dựng từ khi tham triều. Hội An hiền hoà dân cư đông đúc, phồn vinh. Món mì quảng, cao lầu, bánh tráng đập, cơm gà Hội An, độc đáo ngon miệng, thu hút khách thập phương quá chừng.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1341623979.jpg


Đà Nẵng, thành phố đẹp mùa đông không lạnh bao nhiêu, bởi gió từ phương bắc thổi về đều bị ngọn Hải Vân chận lại, tuy có gián tiếp hứng chịu nhiều trận bão chung miền từ tháng 9 trở đi đến cuối năm. Phố nằm ở trung độ đất Việt, thuận lợi về nhiều mặt, do hai trục giao thông quốc lộ lA nối đường xuyên Việt, quốc lộ 14 B, nối cảng với Tây Nguyên. Đường bay, đường bộ, đường thủy, đường sắt, nhộn nhịp, ồn ào, đông đúc náo nhiệt bon chen. Nhiều night club mọc lên như nấm mời chào những chàng lính Mỹ đầu tiên vào miền Nam Việt Nam. Thành phố ngái ngủ hầu như bừng sống, để chụp giựt sau những năm dài, thao thức theo biển Mỹ Khê, Tiên Sa, Thanh Bình: mỗi vùng biển mang một dáng vẽ đáng yêu khác nhau.
Chợ Hàn nối liền với chợ Cồn trên đại lộ Hùng Vương dài hun hút. Thánh đường uy nghi. Chùa chiền nhang khói u trầm nghi ngút, rợp bóng cây um tùm. Bến Bạch Đằng tấp nập người đi hóng mát, bán buôn đủ thứ quà bánh linh tinh trên công viên đầy xác phượng vào mùa hè. Bên kia sông Hàn là Sơn Trà lộng gió, trên sông nào đò ngang đò dọc, và những chiếc phà to đưa đón khách lại qua.

 
Bên kia sông Bạch Đằng là bán đảo Sơn Trà hùng vĩ cách xa trung tâm thành phố Đà Nẵng 10 km về hướng Đông Bắc. Bán đảo Sơn Trà coi thật phóng khoáng cao 693m (so với mực nước biển). Biển xanh màu ngọc bích lấp lánh như tráng men sứ. Đặc sản nơi đây có̀ rong tảo quý hiếm, rong câu chỉ vàng, rong câu chân vịt có giá trị. Một con đường hẹp độc nhất vắt vẻo uốn mình bên sườn núi. Núi choài chân ra biển ghép những tảng đá to dầm mình dưới nước hoang dã nguyên sinh thật dễ thương. Đây là nơi quầng cư vô số loài Vọc, Chà-Và. Hươu, Nai. Đười Ươi. Khỉ đuôi dài. Vượn. Gà mặt đỏ. Bãi biển bằng phẳng cát trắng phau vẫn vắng lặng hoang sơ tự nhiên, nhưng tuyệt đẹp.


Ngũ Hành Sơn với núi đá hoa cương vân ngũ sắc dựng đứng, cao chót vót, nằm kề đại dương bao la. Ngũ Hành Sơn gọi chung có năm ngọn núi: Kim Sơn. Mộc Sơn. Hoả Sơn. Thủy Sơn. Thổ Sơn. Động Linh Nham. Vân Thông. Huyền Không. Tàng Chơn. Ngoài ra có hang Gió, hang Ráy.

 

 http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1341624177.jpg


Đường vào chùa Non Nước gập ghềnh khúc khuỷu, bụi đỏ mù bay, nhiều ổ gà lởm chởm, đứng dưới chân núi nhìn lên chùa mỏi cả cổ. Người bán hàng mời chào du khách mua hàng mỹ nghệ, do chính thợ thủ công đi lấy đá xanh, về nhà đục đẽo, trau chuốc thành những hình tượng tuyệt tác, độc đáo nét văn hiến lịch sử Việt Nam. Chùa Non Nước an toạ trên đỉnh núi cao vời vợi, tiền đường vắng lặng, văn uyển đẹp đẽ, như chuyện ngày xưa Lưu Nguyễn lạc chốn bồng lai tiên cảnh vậy. Đứng trên sân Non Nước nhìn xuống chân núi, Mười thấy trời đất như quay cuồng, mà hết hồn hết vía. Trên Chùa cao ngất gần chân mây, có vị hoà thượng trụ trì mày rậm mũi cao, râu bạc trắng như cước dài tới ngực, khuôn mặt sư cụ đầy đặn, dáng dấp phương phi. Sư cụ mặc áo trúc bâu, một tay cầm gậy ngà, một tay cầm chuỗi cung kính chắp trước ngực. Phong cách sư cụ mực thước niềm nở ôn hoà vui vẻ đón chào du khách.


CHUTIEU 44

 

Có mấy chú tiểu đồng mặt mày hồng hào dễ thương, để chùm tóc trái đào, mặc áo nâu sồng, lon ton hướng dẫn du khách xuống thạch động. Con đường trơn hẹp, đi xuống, đi lên ẩm ướt giá lạnh. Nhất là động Huyền Không với giếng tuyền cầm, tự phát ra những âm thanh trầm bổng ngút ngàn véo von đêm ngày. Như tiếng đàn tiếng sáo nhè nhẹ nhã nhạc theo sóng biển lao xao thoảng đưa về, êm thật êm. Tượng Phật tạc đá xanh thấp thoáng đó đây. Khe đá nước chảy róc rách, trong veo, ta uống vào nghe mát từng khúc ruột. Thạch động ươn ướt màu ngà ngà, đầy ngân nhũ, chen lấn những khe suối róc rách, động Chiêm Thành, Bàn Cờ. Nói chung đa số hang động như một bức tranh thiên nhiên hữu tình phong phú tự nhiên quá đẹp! Nơi có loại tảo quý hiếm như: Rong câu chân vịt, rong câu chỉ vàng.


Ngọn Hải Đăng bóng láng rêu phong cổ xưa. Nơi sinh ra những danh nhân nổi tiếng: Hoàng Diệu, Trần Cao Vân, Trần Qúy Cáp, Thái Phiên. Đặc biệt những thánh thất Cao Đài rất đẹp “Thiên nhân hợp nhất. Thiên chân vô ngã”. Các chức sắc quần áo trắng tinh, họ trang trọng đến thánh thất, vào bàn thờ Cửu Trùng thờ một con mắt tỏa sáng trên quả địa cầu. Bên trên là thế giới đại đồng: Lão Tử. Phật. Chúa Jésu Kitô Vua. Khổng Tử. Mô Ha Met. Họ cung kính trang nghiêm đi cúng bốn lần một ngày: Sáng. Trưa. Chiều. Tối.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1341624260.jpg


Núi Bà Nà an ngự tại huyện Hoà Vang, cách thành phố Ðà Nẵng chừng 45 km, về phía Tây Nam. Núi Bà Nà có một bên cao sừng sững, và một bên kia là vực sâu hun hút. Núi Bà Nà cao 1.487m so với mặt biển, diện tích 8.500 ha, rừng chiếm 6.056 ha. Bà Nà có rừng cây và những đồi thông xanh ngắt, ngút ngàn. Bà Nà quy tụ bốn mùa kỳ lạ trong một ngày: Buổi sáng Trời thanh thanh tươi tươi. Buổi trưa Trời ấm áp rực rỡ như mùa hè. Buổi tối gió hiu hiu thổi như mùa thu. Và, như mùa đông gây gây rét, tuyệt vời với những đồi thông xanh ngắt reo vi vu ngút ngàn.


Ba Na 3

 

Những rừng cây rì rào lao xao vẫy gọi gió. Tầng mây xôm xốp bồng bềnh lơ lửng bay bay suốt ngày đêm. Trên đỉnh cao trời luôn sáng rạng, nhưng tầng mây ưa vần vũ e ấp ôm quanh lưng núi, chẳng lúc nào tan: mây chia thành hai tầng lớp sáng chói và bàng bạc tách bạch. Mây không bao giờ vượt lên cao, hay tản mác bay là là trong không gian mơn man lơi lả nơi quê hương cẩm tú.
Nông Sơn, Lệ Trạch, Thanh Khê, Kim Liên, Bến Ván, Nam Ô, nằm dưới chân đèo Hải Vân, đường đèo chật hẹp đi một chiều, khá quanh co hiểm trở.


BIEN  ( DEO HAIVAN)

 

Đoàn xe lên và xuống từ hai hướng: Hải Vân Nam và Hải Vân Bắc. Trên quốc lộ số 1, và dọc theo bờ biển Đà Nẵng đến làng Nam Ô, là làng chuyên làm nước mắm ngon nổi tiếng ở Việt Nam. Đèo Hải Vân quanh co hiểm trở ngoằn ngoèo dài độ chừng 20km. Từ dưới chân đèo Hải Vân đoàn xe của hai hướng Bắc và Nam, người ta phải cho xe chạy chậm rì rì mò mò lên tóp đỉnh Hải Vân. Hai đoàn xe sẽ gặp nhau trên đỉnh đèo Ải Vân cao chót vót luôn lồng lộng gió, mây trắng quyện sương quanh năm bay là là trên đầu ngọn cỏ. Trên cao độ 460m nhìn xuống bao quát quanh vùng; quả thật phong cảnh đẹp ngất ngây tuyệt vời.
Khi người ở trạm gác dưới hai bên chân của đèo: Hải Vân Bắc & Hải Vân Nam liên lạc gọi điện thoại báo hiệu là: chiếc xe cuối cùng ở bên phía họ đã lên hết trên đỉnh đèo bên hướng Bắc và hướng Nam, và hết giờ, (để đoàn xe lên hai hướng đèo ấy được phép di chuyển chạy xuống, vì con đường đèo rất hẹp, đoàn xe chỉ có thể đi thuận một chiều mà thôi). Thì trên đỉnh đèo, có hai ông lính gác trạm Ải… sẽ ra mở khóa ở hai đầu cổng gác, cho hai đoàn xe trở xuống theo đường một chiều... từ hai phía: Nam Hải Vân và Bắc Hải Vân.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1341624361.jpg


Hải Vân còn có tên gọi là Ải Vân Quan. Vì cư dân trong miền Nam muốn ra Huế đi Bắc, hoặc từ ngoài Bắc đi vào Đà Nẵng để xuôi Nam, thì họ đều phải vượt qua "cửa ải" xây từ thời vua Minh Mạng (1791-1840). Tại đây có một lô cốt có gọi tên là "Ðồn Nhất" xây dựng từ năm 1.826.
Trên chóp bu đèo Hải Vân có một cánh cổng to đó là “cửa ải” đồ sộ, độc đáo, chênh vênh như cánh cổng tiến thẳng lên thiên đình, bởi vì nó nằm trơ trọi, đơn độc, và gần đấy là một lô-cốt cũ bám đầy rêu cũng nằm cheo leo trên triền đồi ngút ngàn lau sậy và nhiều loại cây hoang dã không tên cao lút đầu. Mây trời mênh mông, ngút ngàn trên cao, xen lẫn biển nước bao la dưới vực đèo, đã giao hoà với nhiên nhiên chỉ có một cửa ải độc nhất, xe cộ và con người muốn đi qua phải xuất trình giấy tờ. Con đường đèo uốn khúc lên xuống nối liền hai miền Nam và miền Bắc. Ngoài ra, tại đỉnh đèo có một miếu nhỏ thờ vị thần chúa tể sơn lâm: “Thần Hổ”. Mười thấy cửa trạm gác quay về hướng Bắc có treo tấm bảng bằng đá cẩm thạch khắc ba chữ “Hải Vân Quan” phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ tuyệt đẹp. Hướng Nambia đá trắng đã ghi: "Thiên hạ đệ nhất hùng quan (
天下第一雄 )" mà Thượng Đế hài hoà ưu ái ban tặng cẩm tú cho đất nước Việt Nam chính là ở nơi nầy. Gió lồng lộng trên đỉnh đèo lả tả mây trắng quyện sương mù vần vũ buông lơi quanh năm suốt tháng. Trời rất lạnh!


“Chiều chiều ra đứng Hải Vân.
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn…” (cd)


phgcanh  6

 

Xuôi đèo về quê, không nơi nào đẹp giống nơi nào, Hải Vân oai hùng hiểm nguy, không thua gì đèo Ngoạn Mục, hay đèo Cả. Một bên là vách đứng sừng sững chênh vênh cheo leo đầy hiểm trở. Một bên là vực thẳm sâu hút tầm nhìn. Đại dương mênh mông xanh biên biếc, luôn rì rầm gào thét những cơn cuồng phong bạc đầu xoáy tít dưới chân đèo trào sóng thần phong cao vút, bọt biển trắng xóa phóng lên cao, bắn tung tóe, rồi rớt ầm ầm xuống, sóng cuồng nộ xô đẩy nhau, chạy lui chạy tới những tảng đá to dầm mình trong biển. Trông thật đẹp mắt những cánh buồm trắng nhỏ ly ti khi tỏ khi mờ, thuyền chơi vơi bồng bềnh lênh đênh nhấp nhô trên biển cả xa thật xa bờ. Con đường đèo chật hẹp khúc khuỷu, uốn lên uốn xuống lượn theo sườn núi hùng vĩ, như con rắn khổng lồ, uể oải bò trên đèo Rọ Tượng toàn rừng rậm.

 

 

7.  Từ Làng LĂNG CÔ đến ĐẾ ĐÔ HUẾ
(Kinh Thành Vàng Son Vang Bóng Thuở Xưa)

 

 

 

“Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi”...


Khi đoàn xe mỏi mệt bò xuống khỏi đèo Hải Vân Bắc, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhỏm (tuy lúc nầy thì khí hậu ở vùng dưới chân đèo phía Bắc đã thay đổi hẳn, nghiã là ở đây khá nóng, còn trên đỉnh đèo Hải Vân luôn luôn rất lạnh). Xe đi một đoạn ngắn là tới Làng *LĂNG CÔ nằm về phiá tay phải, sát cạnh quốc lộ 1. Bãi biển Lăng Cô còn gọi là "Vịnh Lăng Cô” an lạc giữa đèo Phú Gia và chân đèo Hải Vân Bắc. Lăng-Cô nép mình dọc rặng núi Bạch Mã hùng vĩ. Lăng Cô nơi suốt tháng năm biển xô sóng bạc đầu ì ầm gào thét, nước biển trong vắt, bãi cát mịn màng tuyệt đẹp. Lăng Cô nổi lên trên ba hướng biển bao bọc như một cù lao bồng bềnh, nhấp nhô uốn lượn sóng vỗ ngày đêm xôn xao nỗi nhớ thương dìu dặt. Lăng Cô gần giống chiếc thuyền trăng lả lướt trôi đi trôi về trong đại dương bao la. Thấp thoáng đó đây bao lọng dừa xanh, hàng thùy dương nhã nhạc dìu dịu êm êm, vi vu dưới bầu trời vần vũ mây trắng lãng đãng bay bay. Xa xa rừng *BẠCH MÃ với đường xe hơi ngoằn ngoèo leo lên núi dài 19km. Nơi đây có khoảng hơn một trăm ba mươi ngôi biệt thự được người Pháp xây dựng từ lâu. Núi Bạch Mã có 172 bậc cấp nện đất cứng dẫn tới thiền viện Linh Sơn Trúc Lâm. Khí hậu trên núi trong lành thoáng mát. Mặt trời ban mai nhảy nhót lung linh lóe lên những chùm nắng vàng anh, đan trong biển nước xanh xanh, tạo thành màu xanh cổ vịt lấp lánh. Đôi khi hừng lên màu cánh cam sáng chói, rực rỡ như chiếc cầu vồng uốn cong trên bầu trời thênh thang gió lộng. Xe ghé lại Lăng Cô, khách lữ hành mua tôm hùm, tôm sú, tôm vằn, tôm đất, mực khô, cua, ghẹ, sò huyết. Các loại cá biển vừa tươi ngon, lại rẻ nhất vùng. Họ khệ nệ bưng lên xe để mang về nhà làm quà biếu.

Thoáng chốc xe đã chạy ngang qua vùng đất dọc ven biển: *THỪA LƯU, *CẦU HAI, *TRUỒI ở xã Lộc Hoà, huyện Phú Lộc; bờ biển có nhiều bãi đá nhỏ to chồng chất xếp lớp ven bờ. Truồi có những dòng suối mát lạnh và trong vắt. Rồi *HƯƠNG THỦY, qua phi trường *Phú Bài là một trong những phi trường lớn ở miền Trung, cách đất Thần Kinh không xa mấy (khoảng mười bảy, mười tám cây số). Qua cầu An Cựu là ta chính thức bước vào cửa ngỏ HUẾ thơ!


“Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong” .


Đúng là sông An Cựu mùa nắng nước đục, mùa mưa nước trong, kỳ lạ đặc biệt, dễ ghét mà rất dễ thương, sông nước là thế mà núi thật lạ lùng: Núi Ngự phiá trước trọc trọc tròn tròn, lơ thơ cây cỏ, phiá sau có méo méo thiệt dị dạng; nhưng mang tính đặc thù bí ẩn làm sao! Núi Ngự cao 105 mét, kèm hai bên núi đất nho nhỏ là tả Phù Sơn và hữu Phù Sơn. Thuở trước xa xưa núi Ngự có tên là Bằng Sơn (hoặc Bình Sơn). Sau nầy vua Gia Long đổi tên núi là Ngự Bình. Sông Hương bắt nguồn từ dãy núi Bạch Mã chảy dài dài qua dọc theo nhiều thác nguồn, rồi hợp lưu với Tả Trạch, Bằng Lãng, Hữu Trạch. Sông Hương trải rộng và chạy dài uốn lượn xanh thẳm giữa kinh thành, nước xuống nước lên lúc giận dữ cuộn sóng xô bờ, khi êm đềm nước thong dong chảy lặng lờ êm xuôi về Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Gia Hội, Đông Ba, Bao Vinh; tạo thành dòng Hương Giang dài ngoẵng mênh mông lượn lờ trong thành phố Huế. Sông Hương yêu kiều không kém phần thi vị và lãng mạn:


Sao anh không về chơi thôn ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(HMT)

*HUẾ ! di sản đặc biệt quý giá là tặng phẩm độc đáo của Trời ưu ái ban tặng, và cũng là sính lễ sang trọng của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân. Huế là vùng khí hậu nhiệt đới, có bốn mùa rõ rệt: Mặt trời luôn rót nắng vàng hanh chảy xuống Đại Nội. Mùa đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù. Mùa xuân xanh tươi, mát mẻ êm êm, trời trong xanh mây trắng nhẹ lâng lâng bay bay khắp đường đi nẽo về & đầy mùi hoa thơm. Mùa hạ rực nắng tình hè, trời hâm hấp nóng nực kinh hồn với những hàng phượng Vỹ đỏ rực soi mình trên sông Hương, phượng nghiêng mình đứng bên hồ Tịnh Tâm. Ít ra từ mỗi sân trường, từng xóm làng… đâu đâu cũng có thể thấy hoa phượng rực rỡ tươi màu giữa nắng gió khuya chiều rộn rã tiếng ve sầu. Mùa thu gợi nhiều lãng mạn, hiu hiu gió heo may đưa đẩy lá vàng hững hờ rụng lả tả bay bay. Mùa đông ảm đạm, não nề ốm nắng, trần mây xuống thấp, mưa bão triền miên, nhiều ngày lụt lội dâng cao. Dù gió lạnh buốt xương sống, nhưng thanh niên nam nữ vui thích ưa mặc áo mưa đi ra phố, họ đứng đông đúc xếp lớp dọc hai con phố chính là: đại lộ Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu, để nhìn thiên hạ bì bõm lội nước lụt.

Nhắc đến Huế, nghe tên Huế… sao lòng mình rạt rào rung cảm luyến thương dập dồn đến thế!? Mười xin nói với Huế, nghĩ về Huế, ghi lại hình ảnh quần thể di tích lịch sử Huế từ những kỷ niệm long lanh lắng sâu trong hoài niệm. Mười thương Huế thuở còn rất nhỏ (lần đầu tiên với gia đình ba má từ Đà Lạt trở về quê cũ). Mười được thân nhân họ hàng anh chị cho du lãm rong chơi khắp kinh thành cổ kính trầm mặc đó đây: Cô nhỏ (trong mắt trẻ thơ) ngơ ngác nhìn dãi mây mềm mại vàng óng, vắt ngang lớp lớp hàng cau, chen cánh những hàng dừa trong hoàng hôn nghiêng bóng. Nhất là lúc nhìn thấy tổng thể kinh thành Đế Đô Huế quá mới mẻ lạ lùng, đầy tráng lệ nguy nga, ấy là lúc cô nhỏ cảm thấy choáng váng, bàng hoàng.

Từ năm 1775 Đế-đô Huế được các vua chúa Nguyễn chọn nơi nầy làm Kinh-đô. Huế là một chỉnh thể kỳ quan, xây dựng tuyệt hảo nhất từ triều đại vua Gia Long. Huế có giá trị về văn-học-sử, cung điện vàng son mang đậm nét đặc thù, dân tộc tính, có những tên nghe khá “oai, hách, đài các, vinh sang” như: Điện Cần Chánh, Đại Cung Môn dành riêng cho hoàng gia. Càn Thanh là nơi vua nghỉ ngơi. Thái Bình Lâu đọc sách gần vườn Ngự Uyển. Trước tiên là kỳ đài, sân đại triều rộng lát đá xanh có cửu đỉnh, điện Thái Hoà là nơi an ngự và làm việc của vua, nơi quan trọng tổ chức các buổi thiết triều. Có ao sen cầu vồng, hồ cá hòn non bộ lung linh dưới nước khi chiều tà xế bóng. Đại nội có hệ thống kiến trúc cung đình, đền đài, chùa miếu rất hoành tráng, tuyệt mỹ, kiên cố, cổ kính, đại: từ kèo, cột, câu đầu, thượng lương, vân vân... Có Hoàng Thành là vòng thành thứ nhì. Tử Cấm Thành tách bạch với bên ngoài. Cửa chánh khởi đầu là cửa Ngọ Môn coi bề thế. Trên vòm cổng là lầu Ngũ Phụng. Cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba, cửa Chánh Tây, nhà Đồ, cửa Ngăn, cửa Hiển Nhơn, Chương Đức, cửa Hậu. Nội Thành trang nghiêm kín đáo có hai ổ súng thần công: Một bên là: Kim, Mộc, Hoả, Thủy, Thổ. Bên kia là: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hồ Tịnh Tâm vời vợi tình luyến thương hoài cổ, ngậm ngùi thương cảm một thời hưng thịnh.

Thời vàng son vua chúa có những nghi thức và cung cách riêng, biệt lập cùng những tên gọi nghe “rất kêu; rất hách và đỏm đáng” như: Hoàng hậu, qúy phi thì ở trong cung có tên gọi “Không Thái”. “Duyệt Thường Thị” là phòng dành cho mọi người xem văn nghệ; nơi đặc thù văn hoá kết hợp sít sao giữa giao-ca dân dã tình tứ, có thứ tự, hài hoà, bài bản, lớp lang với giao-ca cung đình khuê các. “Thái Y Viện” là trung tâm y tế. “Thượng Thiện” là nhà bếp.



 

 


Phía Nam sông Hương và phía Tây núi Ngự là khu quầng thể lăng tẩm, tích tụ nhiều lối điêu khắc tinh vi, có cửu đỉnh đúc đồng thau kỷ thuật tinh xảo, mỗi đỉnh mang một tên riêng, tượng trưng cho mỗi vì vua. Đỉnh có 18 hoạ tiết phong cảnh, hoa chim, khắc chữ nổi mang tên mỗi đỉnh, như: Cao. Nhân. Chương. Anh. Nghị. Thần. Tuyên. Dụ. Huyền. Cao Đỉnh cao 2m rưỡi là to lớn bề thế nhất. Huyền Đỉnh cao 2m,31phân, nhỏ nhắn xinh xinh. Bên phải có miếu Triệu, Thái, Hưng, Thế, Phụng Thiên. Mái nhà lợp ngói hoàng lưu ly, cột chạm rồng to uốn khúc giác vàng kim nhũ. Trần phi vân. Vách khắc kỳ công, chạm trổ tinh vi, có giá trị vô cùng phong phú. Từ những hình bát mã, bạch tượng, kỳ lân, tứ linh, tứ quý, quan văn, quan võ, đại thần phân chia rõ thứ hạng, phẩm trật từ các lăng: Minh Mạng. Thiệu Trị. Đồng Khánh. Tự Đức. Gia Long. Khải Định… vân vân… Lăng tẩm Đế Đô đất Thần Kinh nghìn năm vang bóng, gồm hai phần chính: Lăng là mộ phần. Tẩm là nơi thờ cúng.

1.  Lăng Gia Long (tên thật vua: Nguyễn Phúc Ánh, 1762-1819, miếu hiệu: Thế Tổ Cao hoàng đế). Lăng xây ở làng Định Môn, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, xa trung tâm kinh thành Huế khoảng 16 km về hướng Bắc – Nam, quần thể “hiệp lăng” do quy tụ có nhiều người thân tộc đã chết trước, sau, chôn rải rác quanh vùng, nên chu vi rộng 2.875ha; (riêng lăng 1800m, 20ha) có 43 ngọn núi đại Thiên Thọ chầu quanh mộ chính, thuộc quận Nam Hoà, lăng về hướng Nam đơn sơ xây từ 1814 rộng thênh thang, đơn giản, bao la trầm mặc, buồn thiu bên bờ Tả Trạch, có sông nhỏ nước chảy lặng lờ. Có hồ bán nguyệt đầy sen. Hàng quan văn= 5 tượng đá. Võ sĩ quan= 5 tượng đá đứng thẳng tắp với hai con rồng ở các tầng cấp của bậc sân đắp gạch vôi. Hai con ngựa to, hai con voi đá lớn ở Bái Đình. Sân sau rợp bóng cây cổ thụ chằng chịt.

Lăng Gia Long đặc biệt độc đáo bởi có hai mộ táng phẳng lì, màu nhờ nhợ đen đen than đá bình dị, đơn sơ, không chạm trổ của thi hài vua và hoàng hậu nằm song song yên nghỉ bên nhau. Lăng Gia Long xa xôi bao bọc núi rừng trùng điệp âm u, chen lẫn đồng bằng bị mài mòn bởi tiếng thổn thức của thời gian. Cảnh trí lăng hài hoà im lắng, thâm sâu, không có la thành, tuy thế vẫn hùng tráng, đơn điệu ngó thật quá buồn phiền sao đâu. Khi vua Gia Long đã thu phục giang sơn từ Bắc xuống Nam, vua đã đặt tên nước: Việt Nam, lúc bấy giờ chính trị trong nước đỗ nát, mọi việc cần phải chỉnh đốn, sửa sang. Triều chính trải qua những khó khăn, khốn đốn rất nhọc nhằn, vất vã, gian nan vô cùng, nào là: thưởng, phạt, tặng phong, làm đền thờ cho chiến sĩ tử vong. Phát huy và xây dựng đất nước, từ các việc: - Tổ chức lại thuế đinh bạ, điền bạ. Mở sở đúc tiền đồng, kẽm, nén bạc, nén vàng. Vua chuẩn định lại thước đo, cái cân chính xác. Sửa sang quan lộ, đường sá, đắp đê điều, cầu cống, sông ngòi, xạy chợ, nhà thương, v.v… Tới việc in sách làm ra luật pháp. Mở mang trường học gồm các trường: võ, văn, quốc sử, địa dư. Song song với việc an cư trong nước, vua Gia Long đã mở rộng bang giao với: Tàu. Chân lạp. Xiêm La. Anh Cát Lợi. Pháp. Thời kỳ thịnh trị của vua Gia Long có những tháng năm phú cường, (sau chiến tranh giành thắng, vua đã nghe lời nịnh thần xiểm nịnh, mới ra nông nỗi… !!!

a./ [*Vua Gia Long có tài trí mở mang bờ cõi, khôn ngoan, lừng danh trong thời chinh chiến gian truân, đã thống nhất giang sơn, khôi phục nghiệp lớn là thế. Tuy nhiên, ngài có yếu điểm là sự “căm thù tột đỉnh” (nghe lời nịnh thần)… khi vua (Thế Tổ) về kinh thành năm Nhâm Tuất 1802, thì vua Gia Long đem vua tôi nhà Tây Sơn về kinh, làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu xong, vua Gia Long đem họ ra pháp trường trừng trị. & Ông cho quật mả vua Nguyễn Nhạc & vua Nguyễn Huệ lên, vứt thây đi, còn đầu lâu thì đem giam ở trong ngục tối* (*)=ít trích dẫn từ Việt Nam Sử Lược, (VNSL, Trần Trọng Kim),trang 172)].
b./ ông Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc chết. Nguyễn văn Thuyên bị chém. Ông Đặng Trần Thường bị bắt bỏ ngục xử tội giảo (trích dẫn VNSL trang 187).

 



 

 

 

2.  Lăng Minh Mạng (tên vua Nguyễn Phúc Đảm 1791-1840, miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân hoàng-đế) Bao quanh núi Cẩm Khê, và có núi Kim Phụng án chầu, lăng xây năm 1840, xa trung tâm kinh thành Huế 12km, ở La Khê Bãi, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, lăng về hướng Tây-Đông rộng 1732m, 15ha. Bửu thành xây hình tròn, tường thành cao cỡ 3m, có ba cửa vào lăng. Tổng thể lăng Minh Mạng nhìn phần trước thì rộng, thoáng và phóng khoáng, bề mặt đăng đối, uy nghiêm, đường bệ. Nhưng càng bước tới khu chính điện thì chu vi và chiều dài khu lăng sâu hun hút, vời vợi. Càng vào gần lăng thì lối kiến trúc lại dày, quy mô. Lăng đường bệ an ngự trong vùng đầm phá đất cổ thoáng mát, núi đồi, sông ngòi, khe suối, có hồ Trừng Minh nước xanh mơ màng đầy sen đung đưa trong gió thoảng mùi hương dìu dịu, và cầu Hữu Bật nhịp nhàng tiết tấu với hàng tượng đá phân chia thứ hạng, phẩm trật, quần thần. 5 quan văn đá= (có năm bậc, gọi là ngũ phẩm). 5 quan vỏ đá (có bốn bậc, gọi là tứ phẩm). Có hai voi, hai ngựa chầu thánh điện.

Quan tài vua Minh Mạng chôn tại Bửu Thành. Vua Minh Mạng là người tài trí, thông minh, văn hay chữ tốt, uyên thâm nho học. Chính vì vua là người rất sùng đạo giáo, trọng đạo Khổng, Mạnh, coi đạo nầy là chính đạo. Vì thế vua nghiêm khắc, chuyên chế, nhiều cương ít nhu, rất uy quyền, bạo tàn trong việc cấm ngặt người Việt theo đạo Ki tô, vua ra nhục hình cho người Việt có đạo Thiên Chúa, ít độ lượng khoan dung bằng các nhục hình dã man, nếu họ không chịu từ bỏ đạo, thì họ phải bị: lăng trì, cho ngựa xé, voi dày, giết họ đến chết không tha, (vì cái tội mình là người Việt lại theo “tả đạo, là đạo ngoại lai Tây phương”).

Đối ngoại thì Vua thân chinh đi ngàn dặm xa xôi muôn ngàn cách trở mà đánh Xiêm La, Lào, ổn định bờ cõi Việt Nam. Vua thành công trong việc nâng cao đời sống cho dân giàu nước thịnh sửa sang việc nhà, việc nước. Tuy nhiên vua Minh Mạng là người rất hết lòng lo cho quốc thái dân an, luôn sống trọn vẹn vì tổ quốc vì dân, ngài muốn nâng dân trí lên cao, hiếu học. Vua mở Quốc Tử Giám, vào những năm: tí, ngọ, mẹo, dậu thì có trường thi Hương. Năm: thìn, tuất sửu, mùi, thì mở trường thi Hội, Đình, cho giám sinh có điều kiện học hành, dễ dàng có cơ hội thi thố tài năng, và tuyển chọn xứng đáng người khoa bảng ưu tú mỗi năm. Ngài nghiêm cấm và xử luật những kẻ cường hào ác bá, chuyên bắt nạc dậm dọa bá tánh hiền dân. Kẻ cờ bạc, rượu trà say sưa phải trừng trị thỏa đáng. Ngài lập ra nhà dưỡng tế cứu giúp bần nông cùng đinh nghèo khổ.
(… ít trích dẫn ghi vắn tắt: …)… Vua Minh Mạng, quan tướng, binh sĩ vất vả vô cùng diệt “giặc trong khởi loạn” khi nhiều dư đảng đang nhiễu loạn khuấy rối trong nước, như: Phan Bá Vành. Lê Duy Lương. Nông Văn Vân. Lê Văn Khôi (con nuôi của tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt). Tuy rằng Lê Văn Duyệt là một đại công thần đã chết, nhưng do bè đảng nịnh thần ác ý bới móc dâng sớ liên tiếp tấu trình, nên vua Thánh Tông đã ra chiếu dụ rằng:
Nhổ từng cái tóc Lê Văn Duyệt mà kể, cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan-quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bỏ gia đình. Vậy, cho tổng đốc Gia Định đến mả hắn san bằng thành đất phẳng, dựng bia khắc lên câu: “Chỗ nầy là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp” ; trẫm chỉnh tội danh cho kẻ đã chết, tỏ phép nước về đời sau làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời”… ).


Mãi đến nhiều năm sau có quan đại học sĩ đông các tên Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu trình xin vua gia ân cho các ông “nghịch tặc” trên ấy… như sau: “thân lại đại tướng, quận công, ví dù cậy công mà làm thành tội, có tội thì tội đã trị rồi, mà có công thì không ai nói đến, chẳng hóa ra đem công lao bách chiến bách thắng của Lê Văn Duyệt làm thành cái tàn hồn phải bơ vơ như ma quỷ ngoài đồng, không ai thờ cúng không?”. Sau nầy vua Dực Tông xem sớ ấy, rất cảm động, bèn truy phong phẩm hàm cho con cháu họ. (Than ôi!!!)



 

 

 

3.  Lăng Thiệu Trị (tên vua: Nguyễn Phúc Miên Tông 1807-1847, miếu hiệu: Hiến Tổ Chương hoàng-đế ). Lăng về hướng Đông-Nam Tây-Bắc, rộng 1000m, 6ha. Lăng có chân núi Thuận Đạo cận tiện, núi Chằm, núi Kim Ngọc, núi Ngọc Trản “tả long hữu hổ” chầu và động Bàu Hồ, có đồi Vọng Cảnh ở Làng Cư Chánh, Xã Thủy Bằng, Huyện Hương Thủy. Lăng xa trung tâm kinh thành Huế 7,5km, có đường hầm để đưa quan tài vua vô huyệt mộ (gọi là đường toại-đạo). Lăng Thiệu Trị trầm mặc, tuy đơn sơ khiêm nhường an phận nhất trong các lăng, nhưng không vì thế mà kém bề thế, dồi dào kiến trúc tinh xảo, sắc cạnh… với 2 voi, 2 ngựa, 10 người đá oai hùng gần ba hồ Nhuận Trạch, Ngưng Thúy, hồ Điện.

Cũng trong chu vi khu đất nầy còn có ba lăng mộ là: Hiếu Đông (bà Hồ thị Hoa, mẹ vua) – Xương Thọ Lăng (bà Từ Dũ, vợ vua) và những khu mộ con vua (bị chết lúc còn nhỏ gọi là “tảo thương”). Thế nên nhà nghiên cứu G.Langland (Pháp) đã nói: “Le tombeau de Thieu Tri peut être considéré comme une des réalisations les plus originales de l’art annamite du XIXe siècle” (Lăng Thiệu trị có thể nghệ thuật được xem là một trong những thành tựu độc đáo nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XIX).

4.  Lăng Tự Đức (tên vua: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1829-1883, miến hiệu: Dực Tông Anh hoàng đế). Lăng xây 1864 trên núi Khiêm Sơn, Động Án về hướng Tây-Đông, thuộc Dương Xuân Thượng, (thôn Thượng Ba), xã Thủy Xuân, xa trung tâm kinh thành Huế 7km. Khu lăng có 2 voi đá, 2 ngựa đá, và 8 tượng đá quan thần. Rừng thông reo vui trong gió ngút ngàn, đất đai phì nhiêu rộng vài chục mẫu. Thành quách cao uốn lượn hài hòa bao bọc theo địa hình khuôn đất màu mỡ và phóng khoáng, có hồ Lưu Khiêm, thủy tạ sinh động, hào, cây cảnh tạo hình, hồ sen bạt ngàn hoa, đắp đất thành đảo Tịnh Khiêm soi bóng xuống mặt hồ trong xanh, nhà bia được bài trí hài hòa bởi rừng thông ngút ngàn ngày đêm reo vi vu, nơi nầy vua cùng các quan văn, võ ưa làm thơ phú, hoặc bàn chuyện chính trị. Trong hậu cung xây nhiều tòa nhà ngang dọc đền đài nho nhỏ xinh xinh.

Vua Tự Đức tâm tính hiền lành, nhân hậu, có tiết tháo và phẩm cách cao quý. Ngài vô cùng hiếu thảo với cha mẹ và thương quan, dân, như con. Vua uyên thâm nho-học, đa cảm mà đầy nghệ thuật tính. Vua giỏi: sử, triết, văn, thơ. Vua làm 600 bài văn, nhất là vua thi sĩ trữ tình có 4.000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ Nôm rất hay). Vua chú trọng đến việc nước, nhất là Sĩ: chăm lo về việc giáo dục, học hành, thi cử. Nông: chuyên làm ruộng. Công: dạy nghề, học những nghề căn bản tiểu công nghệ, dệt vải, thợ mộc, thợ rèn, v.v…. Thương: buôn bán nhỏ từ trên thuyền, dưới bến đường bộ, đường núi. Những phẩm chất cao quý của vua Tự Đức rất đáng trân trọng, tuy nhiên do việc triều đình vua Tự Đức không mở cửa buôn bán với ngoại quốc, việc nghiêm cấm người Việt theo đạo Kitô và giết những giáo sĩ: Y Pha Nho. Bonard. Charbonnier. Matheron… khiến mối giao hảo Pháp-Việt đã nhạt nhẽo, bất hòa, càng thêm rạn nứt trầm trọng (xin xem thêm “Histoire de la Cochinchine” – tác giả P. Cultru).

5.  Lăng Dục Đức (tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Chân 1853- 6-10-1883, miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng ở đông–tây Phường An Cựu, xa kinh thành Huế chưa đầy 3km. Lăng thuở trước rất bé nhỏ, đơn sơ, nhưng sau nầy vua Thành Thái xây lại coi cũng không đến nỗi nào bé. Từ khi vua Tự Đức chết, thì cái ngai vàng oái oăm ấy đã trở nên vô cùng rối rắm, hỗn loạn vô biên với 3 và thêm 4 đời vua (những người thuộc các hệ khác của hoàng tộc Nguyễn Phúc… thay phiên nhau lên ngôi chỉ trong vòng 4 tháng: Dục Đức. Hiệp Hòa. Kiến Phúc. Khốn thay lại có thêm 4 đời vua ngắn ngủi nữa: Hàm Nghi. Đồng Khánh. Thành Thái. Duy Tân).

{Ở giai đoạn lịch sử triều đình Việt Nam lúc bấy giờ quá rối rắm, phức tạp, do bọn chuyên quyền gian ác phụ chính đại thần trong triều thao túng, gây ra đẫm máu. Vua Dục Đức là hoàng trưởng tử khi lên ngôi lúc 32 tuổi, chỉ làm vua 3 ngày, là bị phế, bị quản thúc, bị giam. Sau 1 tuần họ không cho vua ăn, uống, nên ngài bị chết đói. Vua chết mà trong triều không cho gia đình của vua biết tin, chỉ bó tấm chiếu sơ sài, có một ông lính canh, và hai người gánh thi hài vua đi giữa trời mưa gió lạnh lẽo, đến một khe mương thì chiếu bị đứt dây, vua Dục Đức rơi xuống vũng nước. Thế nên họ đào đất sơ sơ rồi chôn vua tại đó} - (ít trích dẫn trên là rất đại cương, vắn tắt. Mời xem thêm từ “Lăng tẩm Huế, một kỳ quan. Phan Thuận An).

6.  Lăng Đồng Khánh – (Tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Đường, 1853-1883 - miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng về hướng Đông Nam–Tây Bắc, tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, cách xa kinh thành Huế 7,5km. Lăng có lối kiến trúc tương đối dày, có lan can xây chung quanh, trước khu vực tẩm lăng có một hồ bán nguyệt đầy sen, mây in hình trên mặt nước hồ êm ả, mây bay ngang qua núi Thiên Thai. Cửa Nghi Môn dựng ở mặt trước sân lát gạch giữa sân chầu có 2 voi, 2 ngựa, và 8 quan viên gầy và cao đã đắp vôi gạch (khác hẳn với lăng tẩm khác đã tạc bằng đá, khổ người đá lùn, thấp). Tại các tầng sân tế, Bi Đình, Bái Đình, Bửu Thành đều sử dụng gạch carô, xi măng, gạch hoa màu tráng men. Cửa Nghi-môn ở Bái Đình, có hàng tượng văn võ quan viên lát gạch giữa sân chầu, có bài văn bia của vua Khải Định viết và khắc ở hai mặt bia.

Tòa nhà kép được pha trộn mỹ thuật kiến trúc Á-Âu tuy nhiên lối thiết kế, tạo hình đặc sắc, hội họa, thủ công tinh xảo ấy đã ghép vào các nơi rất tuyệt từ: vì kèo hình chữ tam mắc máng xối ở chính giữa và chảy xuống một bên hè. Nội thất điện Ngưng Hy là tòa nhà lộng lẫy có kính màu lắp vào các ô cửa. Trên bờ quyết, nóc, đầu hồi, cổ diêm… sơn son thiếp vàng, đa số làm đất nung tráng lớp men màu ngủ sắc. Chung quanh các vách tường, cây cột… thường: khắc, viết, vẽ, trên pa-nô, những hình ảnh sống động nổi ra, lộ ra bên ngoài tường, vách, tường, cột khảm xà cừ, đất nung tráng men màu, điêu khắc tuyệt hảo với nhiều màu sắc chói lọi, từ: chuyện cổ truyền dân gian, chuyện “Nhị thập tứ hiếu”, “ngư tiều canh mục”, cây cỏ hoa lá, cầm kỳ thi tửu, rắn, tắc kè, gà, ngựa, voi, v.v… Quan tài vua quàn tại điện Ngưng Hy ngày 18.4.1889.

 

 


 

 


7.  Lăng Khải Định (tên vua: Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sinh 1885-1925, miến hiệu Hoằng Tông Tuyên hoàng-đế). Lăng Khải Định uy nghi trên ngọn đồi khá cao lồng lộng gió. Thiên nhiên hùng với rừng thông ngút ngàn, và ngoại cảnh hữu tình êm ả, hồn nhiên an ngự trong tư thế hổ phục rồng chầu bên tả hữu lăng. Lăng an ngự hướng Đông-bắc Tây-nam, tại làng Châu Chử, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách xa kinh thành Huế 10km. Có dòng khe Châu Ê chẻ ra hai phía loanh quanh khu đồi, rồi tụ lại theo phong thủy “chi huyền thủy”, có núi Kim Sơn & Chóp Vung làm bối cảnh. Lăng đứng sừng sững ở mé núi Châu Chử có khe Châu Ê nhiều nước độc, nên dân gian thời đó đã có câu: “Châu Ê ơi hỡi Châu Ê. Khi đi thì có. Khi về thì không”. Từ dưới chân đồi ta phải đi lên 127 bậc cấp, và chia ra thành 5 tầng cấp có những con rồng ngồi trên bờ tường rào gạch dài và rộng. Lăng an ngự trên sườn núi kiến trúc theo kiểu mới (éléments modernes) như một tòa lâu đài rộng rãi, nguy nga, tráng lệ nhất được tô điểm hài hòa khéo léo từ kiến trúc cảnh quan hơn các lăng kia (landscape architecture). Biến tấu giữa thiên nhiên cẩm lệ và toà lâu đài độc đáo, tráng lệ, hùng vĩ, đồ sộ, theo kiểu tân thời đúc bê tông cốt sắt, ngói ardoise, xi măng, cửa sắt, cột thu lôi (paratonnerre), đèn diện, vật liệu… phải mua bên Pháp chuyển về. Loại sành ngang chở đến xây từ Hà Đông. Vỏ chai, sứ tốt, thủy tinh tân thời được nhập về từ Nhật và Tàu. Bậc cấp đá hoa cương dẫn lên chính điện đẹp. Trên bậc sân vẫn có 2 voi, 2 ngựa và 20 người đá to lớn bằng người thật, 10 quan văn đội mũ có thẻ ngang, 10 quan võ đội mũ tròn và cầm gươm, mà thi sĩ Pháp Charles Patris đã ghi:

Voici tes éléphants, armés pour la bataille. (Đây là voi, sẵn sàng ra chiến trận)
Et tout auprès, dressés en leur très haute taille. (Và đây là các tướng lãnh hiên ngang)
De ton palais futur les nobles maréchaux. (Ta nhận ra, qua nghi biểu nghiêm trang)
Je reconnais tel vieux ministre à son air grave. (Quan thượng thư già, nhà thơ đức độ)
Ce fin lettré, modeste, et si maigre et si hâve. (Người tiều tụy, mặt gầy gò, khắc khổ)
Dans sa rigueur d’ ascète allait à pas déchaux. [(Giữa sân chầu đang lê bước chân không. (‘Lời Việt PTA’)]

Chính điện lăng Khải Định có nền lăng láng xi măng xanh xám, những bức họa long vân trên trần rộng dài và rộng ở ba gian chính uốn lượn tinh xảo, nhịp nhàng. Tường vách, vẽ chim chóc bay lượn, thú vật nhảy nhót, hoặc khắc mai, lan, cúc, trúc. Bát bửu. Ngũ phúc. Hoa văn làm mô hình đắp nổi chữ vạn thọ, phúc… Tường ghép thủy tinh, sành sứ màu xanh, đá tai mèo. Tượng vua Khải Định ngồi trên ngai vàng vua ngự có mạ một lớp vàng bên ngoài, do hai do ông người Pháp: ông P. Ducuing tạc, và ông F.Barbedienne đúc. Phía sau ngai vàng là một hình phong cảnh buổi hoàng hôn mặt trời đỏ ối bên núi đồi sông nước và gió thổi bờ tre cây cành nghiêng bóng. Còn một bức tượng toàn thân vua Khải Định đang đứng thì đặt tại Bi Đình do một ông lính thợ Việt Nam quê ở Quảng Nam đúc. Những di tích còn để lại ở lăng Khải Định còn chưng bày áo mão, nhung y lễ phục, tủ giường, bàn ghế, v.v… khay trà, cơi trầu, bình vôi, hộp thuốc, trắp cẩn xà cừ, đèn, gương soi mặt, mắt kính, sách vở, bút mực…

Ở trong miền Nam Việt Nam thì có các lăng:
Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt ở tại chợ Bà Chiểu,
Lăng Phò Mã Hậu Quân Võ Tánh nằm trong vùng đất quân sự.
Lăng Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu ở trên đường Trương Tấn Bửu.
Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy ở Phú Nhuận.
Lăng Bá Đa Lộc thường gọi là Lăng Cha Cả ở Tân Sơn Nhứt.
Lăng Nguyễn Văn Học được người Pháp gọi là "Tombeau du Marechal Nguyễn Văn Học".

Lăng Ông Nhiêu Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhứt).

oOo


Kinh thành Huế có Phú Văn Lâu nổi cao trên mặt thành. Chợ Đông Ba là ngôi chợ lớn nhất nơi xứ Huế an ngự bên dòng sông Hương, dướI bến ghe thuyền chở đầy cá tôm lên bờ, trên đường người vô kẻ ra tấp nập, ồn ào huyên náo. Họ nói nhỏ nhẹ ríu rít dập dìu như những tiếng chim, như điệu hò mái nhì, điệu nam ai. Hầu hết nhà nhà đều có vườn cây hoa trái tốt tươi. Nhiều giọng nói ân tình nghe rất nhẹ ríu rít lao xao trong chợ Đông Ba chộn rộn. Mười xuống đò xuôi mái chèo lần theo ven bờ sông Hương, lên cầu Bạch Hổ văng vẵng nghe hồi chuông Thiên Mụ (xây năm 1601 có tháp Phước Duyên xây 7 tầng) ngân nga vang vọng:


“Gió đưa cành trúc la đà.
Tiếng chuông Thiên Mụ canh ga Thọ Xương”.

 



 

 

 

Lâu chưa về thăm… nhớ Huế
Nắng hồng vương Vĩ Dạ ấp hàng cau
Áo màu sim em khép nép qua cầu
Tay giữ nón ngang Phú Vân Lâu phượng đỏ.


Núi Ngự chiều dâng chim kiếm tổ
Sông Hương trăng luyến khách đưa đò

Nắng ngày xưa nay trôi giạt nơi mô?

Đường phố cũ và cơn mưa dầm Thượng Tứ.
Làn gió thoảng hồi chuông từ cổ tự
Ngả bên sông Tháp Thiên Mụ in dòng
Hương Giang sóng vỗ trong lòng
Xa nhau từ đó hết Đông lại Hè
Nhớ sao phượng đỏ lời ve.
.. (*)

Bờ môi Mười trào dâng vị ngon, tuổi thích mè xững, ô mai xí muội, me chua khế ngọt, ổi đào, cầm trên tay trái cóc ngâm muối đường chua chua ngọt ngọt chấm muối ớt, cắn vào răng hít hà hít hít… cay cay mà ngon ơi là ngon, làm chết thèm mấy đưá bạn đứng nhìn mình chảy nước miếng ròng ròng chớ chẳng chơi! Dẫu có nhắm mắt, lớn nhanh lên hay đã già, Mười tin mình vẫn hình dung được dĩ vãng trôi về trong hiện tại, khi xe đi ngang qua cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp nầy.

Ngày ấy, Mười, nữ sinh lớp Đệ Thất ríu ra ríu rít trong đồng phục trắng, cô đơn, (vì “ẻm” ở xứ Lạnh mới về, chưa hề quen trường mới, bạn mới, từ trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry). Chân Mười mang guốc vông lẹt đẹt, vành nón lá kéo nghiêng che muôn sợi mưa li ti, bay bay, phủ mờ nhoà thành phố, khi mùa đông mưa gió, lụt lội tràn về. Tóc thề mướt mát, nặng trong gió, Mười ôm cặp kè kè bên hông, thân co ro, môi run run bởi gió rét mưa phùn buốt lạnh. Khi muà xuân tới mặt trời nhú dạng trên những lùm cây, Mười cùng hàng hàng lớp lớp nữ sinh, tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, trong sáng, vui tươi bước đi hân hoan dưới những vòm cây rợp bóng, có lọng dừa lọng cau bao bọc tứ bề.


Mùa Hạ về Mười cùng bạn Huế có giọng nói chính gốc nội thành, khi họ cất tiếng oanh vàng thỏ thẻ thì nghe thanh tao, nhã nhạc như reo vui với tuổi trẻ an thư hồn nhiên. Họ tung tiếng cười bay theo tiếng ve ra rã trên chùm phượng vỹ cao vời vợi, hoa đỏ thắm nhuộm đầy vùng trời Đế Đô. Mấy bạn xứ Huế ưa chọc ghẹo con nhỏ… Đà Lạt là: …“khách ngất ngây khi hoa nở trên má, … nhớ hoa đào trên má ai…, màu hoa in trên má, làm khách lưu luyến mãi…”
Khiến con nhỏ tức tưởi hờn dỗi nghĩ rằng:
- “Mình nào có làm cho đôi má hồng hồng đâu, mà là do Trời ban cho các cô gái Đà Lạt xinh xinh đẹp đẹp tự nhiên đều như thế! Chứ nào phải tự ên dồi phấn thoa môi son”! Các bạn lại tha hồ quệt quệt vô má con nhỏ mà lêu lêu mắc cỡ: Khiến con nhỏ òa khóc ngon lành:


Chi lạ rứa chiều nay tui muốn khóc
Ngó chi tui loài cỏ mọn hoa hèn
Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
(NTH)

 


 

 

 

Lòng Mười dạt dào niềm luyến thương cảm mến vô tận với Huế. Chỉ vì, cô bé trước kia là cư dân sinh trưởng ở vùng Đà Lạt nho nhỏ xinh xinh, hiền hoà, (không kém phần thi vị, thơ mộng). Nay quay gót về kinh thành Huế rộng thênh thang, ngây dại bảng lảng trước phách lá hồn hoa: Mộc lan, mẫu đơn, hoàng lan, hoa sen, hoa súng, hoa lục bình, hoa cau, hoa ổi, hoa ngâu, hoa lài, hoa trang, hoa quỳnh, hoa hướng dương, hoa me li ti, hoa phượng đỏ rực rỡ. Huế nên thơ trầm lặng, len lỏi trong lòng cô bé chớm lớn niềm an thư sạch trong, sáng ngần… chẳng hụt vơi tình xanh. Cô em cứ tưởng đời mãi mãi là một màu xanh, xanh xanh trên con đường thiên lý thênh thang ngút ngàn. Ai ngờ… con nhỏ Đà Lạt ngu-ngơ chẳng hiểu anh xứ Huế ghé tai… nói chi mô tê răng mà lạ lùng dị dạng rứa… hè:
Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.


"Mua lửa" thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho "lửa" hoài

"Mắc lửa" là thiếu nợ dài
"Lửa" chi không thiếu, chẳng phai "lửa tình"
"Sáng mơi" là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi

"Bữa tê" em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
Bữa tề" mang lịch ra chia
Bữa tể" là trước bữa kia hai ngày

"Bữa ni" là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì
"Mần chi" ai hỏi làm chi
Em muốn làm gi`, "răng hoải mần chi?"

Thế này thì nói "ri nì"
"Rứa tề", thế đó mần chi đây hè?

Cái cây thì noái cái "que"
Còn ở trước hè lại nói cái "cươi"

Cái "ôn" bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người vô duyên
--------------

 

 

8.  Từ (hướng Nam) Mỹ Chánh Lặng Lờ
Ra Quảng Trị & Phong Tục Tập Quán

 




Trong xe đò bác tài xế trẻ mở radio có bài ca “Về Miền Trung” lúc đoàn xe chạy tới *Tử Hạ. Lòng Mười cảm thấy thấm buồn. Tuy nhiên khi ngồi trên băng ghế lắc , Mười lắng nghe các “mệ” vui vẻ hài hoà trò chuyện thân tình chia xẻ chút bánh trái với nhau:
- Nì, O ăn bánh ni đi…
- Có chút bánh ít nớ, mà ăn cái chi, hì.
-
Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
- Nếu khôn ưng ăn bánh ít, thì ăn trầu, hỉ!
-
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
(cd)
- Thì ăn, chớ khôn thì O lại nói:
Chuối không qua Tây răng gọi là chuối Sứ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
(cd)

Mười thực sự kính phục các mệ nơi “xứ dân gầy” dù vai trĩu trịt quang gánh nặng, lưng còm, chân đất, quần thô áo vải, nhưng họ có cả tấm lòng nhân hậu tình mến, và có nguồn ca dao hoặc câu hò giọng hát thì dồi dào vô tận.
Xe chạy qua *Sông Bô, *Thượng An Ngoài, *Thượng An Trong, *Cầu Quán Rớ, *Văn Xá, *Hiền Sĩ, *Phò Trạch…, xe chạy mỗi lúc một chậm hơn, bởi trời đổ mưa to, và vì có lẽ Mười cảm thấy nóng ruột mong xe mau chóng chạy đến *Mỹ Chánh, *Hải Lăng… Nơi có bài thơ:
Từ HUẾ đi Bắc trời đẫm cơn mưa.
Lác đác hàng cau chen cánh hàng dừa.
Rồi oi ả hạ về nung bếp lửa.
Bên bạch đàn thưa nhà tranh song cửa.

Quê hương em đất sỏi đá khô cằn.
Thu heo may quốc lộ thêm điêu tàn…
Anh đến đây giữa vùng trời mây xám.
Chân ngại ngần anh bước qua: MỸ CHÁNH.

Gió lộng thổi cánh rừng sim bạt ngàn.
Bên làng Ngoại lưu thủy nơi CÙ HOAN.
Ông tổ Nội ở đầu HƯNG NHƠN nhánh.
Đất Tổng AN THƠ trù phú non đoài.

Dòng sông Nội cận bên THUẬN NHƠN Ngoại.
Yêu thương an bình Phủ HẢI LĂNG ấy.
Đầm ấm uống nguồn nước ngọt vơi đầy.
Tình quyến luyến quyện chặt đất quê đây.

Ra xa nữa miền QUẢNG TRỊ̣ phố buồn.
Ngày kia súng đạn về hơn mưa tuôn.
Khổ đau khốn cùng! Chiến tranh trong cuộc
xâm lăng bạo tàn, rực trên ngọn đuốc

Thiêu hủy xóm làng (đời sống bình yên).
Mẹ ôm xác con cười, khóc, băn khoăn...
Ông ra vườn chôn hài nhi vừa nhặt.
Em bé lõa lồ nhìn cha một mắt.

Bàn tay què bà lượm lặt bới đào
xác người vừa tắt trên dáu môn khoai…
Nơi đống hoang tàn quê nhà hiu hắt.
Dùng tay chị đi thay bàn chân mất…

Lết trên lối mòn lởm chởm ụ chông.
Ôi! Tương lai cuộc đời không thể tưởng...
Chiến tranh tới để lại vũng trừu tượng!
Đã bao phen em an phận thủ thường.

Vùi đời hèn bên nấm mộ chiều hoang.
Anh có vì em chia sẻ bâng khuâng!?
Anh yêu ơi! Quê nghèo thật cay đắng.
Có điều chi quặn đau tim nằng nặng!

Nầy bé HẢI LĂNG hạnh phúc cuối cùng!
Hố mắt trào tuôn ngấn lệ rưng rưng…
Cánh tay anh dìu bước em chưa vững
Bờ môi ta dâng mật đắng tủi mừng.
(*)



*Hưng Nhơn và *Thuận Nhơn, là nơi quê nội và quê ngoại của Mười! Xe dẫn đến làng quê trên con lộ chạy dài, dọc theo dòng sông xanh êm mát quanh co, ngoằn ngoèo. Nhìn từ xa, dòng sông như sợi dây dừa đang uốn lượn xẻ đồng ruộng làng mạc ra làm đôi. Cánh đồng khô tiếp nối dãy núi đồi trùng điệp dưới tán rừng có đủ thứ: đót, tràm, dược liệu, mây song... Bên hướng Nam sông Mỹ Chánh thuộc giang địa cuối cùng của Huế. Bên bờ Bắc con sông Mỹ Chánh thuộc giang địa của Tỉnh Quảng Trị. Sông Ô Lâu (Ô Giang) hợp bởi nhánh sông Mỹ Chánh: bắt nguồn từ dãy đồi cao khoảng 500 > 600m là hợp nhánh chính, có chiều dài 65km, lưu lượng dòng chảy 44m3/giây, mật độ 0,81km2; có thể cung cấp chừng 376 triệu KW/h điện năm. Vì thế sông Mỹ Chánh là nơi thuận tiện chuyển tiếp của vành đai nội chí tuyến Bắc bán cầu & quan trọng từ ba bốn miền giáp giới địa lý: Mỹ Chánh nằm ở một phần quốc lộ 1: con đường cái quan nối liền Huế và Quảng Trị. Có quốc lộ 9 đi Lào qua cửa khẩu Lao Bảo toàn núi đồi trùng điệp, âm u, đi qua khu Khe Sanh, Đa Krông. Sát biên giới Việt là hai tỉnh Salavan, Savankhet, (mà tự thuở thanh bình, hồi còn bé, có mấy lần ba đã dẫn Mười qua đó, để ba trị bệnh nan y cho Vương Quốc bạn) con đường ấy nối trục đường bộ xuyên Á.

Đất đá lộn xộn, lạo xạo rạo rực dưới gót giày. Con đường mòn gập ghềnh lổm chổm gồ ghề nhìn mút tầm mắt đến tận dãy trường sơn lún bùn, dưới ánh nắng nhạt phai buổi chiều cuối năm trông đơn điệu vô vàn. Hai má con mừng rỡ, tươi cười, chen lẫn nỗi bâng khuâng trầm lắng, bước thấp bước cao thân hình ướt nhẹp nước mưa, khi má con Mười vừa đặt chân lên thềm nhà, là nơi phần đất trữ lượng than bùn chuyên sản xuất phân vi-sinh.

MỸ CHÁNH, nơi núi trọc đồi gò phù sa cổ và phù sa tiểu vùng đất phiến thạch tím và granit, với đặc thù khắc nghiệt tự nhiên vào muà khô, khí hậu rất oi nồng, thì rừng sim bạt ngàn cũng ủ rũ xơ xác. Vài tháng một lần gia đình Mười khi đi đò, khi đi bộ đường tắt băng rừng vượt dốc trùng điệp núi non chập chùng đi lại đó đây. Lau lát lá kép lông chim hoa vàng nhạt bay bay trong rừng sim bạt ngàn, cây lau cao hút tầm mắt, cây cối um tùm, chằng chịt, kèm toàn cây sao, kiền kiền, gụ, lim, chen lấn trong cánh đồng sậy, bông lau trắng xoá bay bay nghiêng nghiêng. Cỏ tranh ẻo lả lao xao đong đưa, lá tranh khô nằm rạp mình xuống mặt đất theo chiều gió xô, tạo ra những lượn sóng muộn phiền nhấp nhô rì rào xô lui xô tớI nơi nổi danh:
Nem chợ Sãi, vải La Vang
Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
(cd)


***


Về hướng Tây cuả Quảng Trị là Thánh điạ *LA VANG cách cổ thành Quảng Trị độ sáu bảy kilomet. La Vang luôn giữ vẻ trầm lắng u buồn dâng cao. Dọc hai bên đường là hàng thùy dương kín đáo chạy dài xuống chính toà thánh điạ luôn rì rào reo trong gió u trầm, buồn tênh. Khoảng năm 1793-1801, vào đời vua Cảnh Thịnh tàn ác kinh khủng nhất, đã bắt triều đình Huế thẳng tay giết người có đạo Kito, sự việc kéo dài hơn một trăm năm sau (mặc dù năm 313 đại đế Constantin ở thành La Mã, đã ký sắc lệnh bãi bỏ việc cấm đạo Thiên Chúa Giáo, và ông ta cho xây nhiều giáo đường. Nhưng đó là chuyện ở bên trời Tây). Khiến giáo dân ở Việt Nam bồng bế nhau, di tản lánh nạn vào trốn ở rừng Lá Vằng xa tít tắp trong hẻm núi xa hun hút, chập chùng trùng điệp rừng cây (một phiá Bắc cuả La Vang là cận bên dòng sông Như Lệ dài lê thê, rộng mênh mông, nước sông Như Lệ chảy xuống các làng mạc và nối dài dọc theo thành phố Quảng Trị với tên gọi là sông Thạch Hãn).

Chính nơi đây nhiều lần họ được Đức Mẹ mặc áo trắng, thắc nơ xanh, bồng Chúa Hài Đồng trên tay. Đức Mẹ La Vang đã hiện ra trên ba gốc cây đa to, trìu mến an ủi, đùm bọc, chở che, giúp đỡ người đau ốm, khó nghèo. Đức Mẹ chữa lành bệnh không những cho đoàn giáo dân lánh nạn, mà Đức Mẹ còn ban ơn cho tất cả cư dân không hề phân biệt tôn giáo toàn vùng. Người ta tin tưởng tuyệt đối, nhiệt tâm, thành khẩn dâng lên Mẹ bao sầu đau. Từ đấy, người ta gọi là “Đức Mẹ Lá Vằng”. (Hồi xưa chính tên gọi là nhà thờ Đức Mẹ Lá Vằng. Nhưng vào thời điểm đó, máy đánh chữ ở Việt Nam chưa có dấu tiếng Việt, nên người Pháp gọi bản địa nầy là La Vang. Thành ra quen tên gọi “La Vang” cho đến bây giờ. Người có đạo Thiên Chúa và người không cùng đạo ở tại đây xiết đổi yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau chí tình không chút tị hiềm. Dù họ rất nghèo, nhưng họ có cả tấm lòng từ ái rộng mở. Đời sống họ lầm than, cơ cực, đói khát, bệnh hoạn vô cùng. Sau 1886 nhà thờ nầy xây dựng khang trang. Giáo đường Đức Bà Sài Gòn, và giáo đường La Vang được chính thức phong lên hàng Vương Cung Thánh Đường năm 1961).

Mỗi năm vào ngày 15 tháng 8 dương lịch có tổ chức kiệu một lần; năm lẻ thì kiệu nhỏ. Năm chẵn thì ba năm có một lần đại hội, nghiã là kiệu rất trọng thể. Biết bao người đã từ phương xa ở lại suốt tháng, sớm hôm quỳ bên Mẹ. Một vùng đất bao la có khoảng triệu người tấp nập suốt ngày đêm đến nhà thờ La Vang để chiêm ngưỡng, cung nghinh Mẹ. Họ trang nghiêm, yên lặng vô vàn, mặc dù người người đông vô số, hàng hàng lớp lớp, người và người chen chân đi bên nhaụ tuyệt đối giữ trật tự từ các nẽo thập phương trở về đây, đã tề tựu rất đông dưới chân Mẹ, khẩn xin Mẹ ban hồng ân. Người ta đi hái lá vằng, lá vằng không bao giờ hết trên núi đồi trùng điệp. Họ múc nước giếng đỗ vào chai lọ, để cạnh đền đài, dâng Mẹ xin những ước vọng, dâng những sầu đau, bệnh tật. Nước giếng sạch trong ngọt ngon, không bao giờ cạn, tựa như lòng Mẹ yêu thương bao la không bao giờ dứt.
***


Nơi quê hương suốt dọc miền Trung từ vùng *Quảng Ngãi về đến *Đông Hà, *Đồng Hới, tới cầu *Hiền Lương *Bến Hải mãi u trầm, lắng đọng. Nhất là phong tục tập quán và những cô những bà miền Trung có rặt giọng Huế chính cống thì thanh thanh, nghe ríu rít, thỏ thẻ, ân cần, bặt thiệp, lịch sự, nhưng thoảng buồn, lạ lạ man mác phiền phiền. Phụ nữ đa số giữ phong cách kín đáo, nhỏ nhẹ, vui vui, nhu mì, dè dặt, đi một đổi đò, đi chợ, đi bán hàng rong, đi xóm; khi ra khỏi nhà họ luôn luôn đoan trang khép nép, e ấp mặc áo dài che kín thân, dù trời nắng gắt oi nồng họ cũng không mặc áo hở hang.

Điều hay hay là phái nữ ở miền Trung càng có nét đặc biệt: Khi các em bé gái còn thơ ấu, thường thường cha mẹ cắt mái tóc bum bê cho con nhỏ, để con bé đi học từ lớp mẫu giáo đến lớp Nhất. Lớn lên chút nữa, cô bé vào lớp Đệ Thất đến trạc tuổi mười bảy mười tám, thiếu nữ xuân xanh duyên dáng ấy thường để mái tóc thề, tóc dài chấm ngang thắt eo, và buông xõa xuống bờ lưng theo gió là tà bay bay. Mái tóc của họ bóng mướt, mượt mà trông tuyệt đẹp, thoang thoảng thơm thơm mùi hoa bưởi, hoa lài, chanh, bồ kết. Qua khoảng quá tuổi ngoài đôi mươi, thiếu nữ ấy để suối tóc huyền chấm mông, dài tha thướt và họ kẹp tóc lại sau lưng. Nhưng khi “nàng” có ý trung nhân (đã đi dạm hỏi), thì mái tóc của “nàng” được xếp cuộn lại gọn gàng làm hai ba lớp, mà họ vẫn kẹp quấn vào, rồi thả kẹp tóc lơ lửng ra sau lưng. Nhìn vào “nàng”, ta biết ngay là “nàng” đã có vị hôn phu. Và khi nàng đã có chồng, thì phụ nữ ấy bối búi tóc to ra sau gáy. Cho nên, nhìn chung là Mười có thể nhận biết và phân biệt một điều lý thú khá hấp dẫn, dễ thương và sâu sắc:

 



Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
(cd)

Ngày xưa ấy, suốt ba tháng hè, thì cha mẹ, chị Hạc, anh Thuyền và Mười, đi qua bao ruộng vườn hồ ao sông ngòi về thăm bà con làng nước tại *Thôn Kẽ Vịnh. Khi họ đi xe hơi, khi đi bộ, khi đi xe thồ do trâu, bò, ngựa, kéo lạch cạch, lọc cọc trên con đường quê lổm chổm đá đăm, bên ruộng đồng rì rào sóng lúa. Thôn quê ngát hương tinh tuyền của hoa mít, hoa cau, hoa bưởi, cam, quít… Lúa chín đầy đồng, thợ gặt tấp nập làm việc ngày đêm. Nhà nhà yên vui qua câu hò điệu hát phong dao trữ tình dân tộc.


Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Thân em như hạt mưa sa
Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày
(cd)

Trên sân phơi lúa vàng. Bên cối chày giả gạo, bên đôi trâu mập kéo cày vỡ đất làm mùa. Bên nghệ nhân khéo tay tinh xảo chằm những bài thơ trên nón lá mỏng nhẹ xinh xinh. Những bữa cơm ngon miệng nghi ngút mùi thơm gạo lức. Cơm đồng quê từ miếng thịt gà, thịt vịt, con cá, con tôm tươi rói nhảy tưng tưng trong rổ. Người ta mừng rỡ chúc tụng nhau, khuôn mặt họ chân chất thật thà tỏ lộ nét hân hoan, chất phác không nói câu văn hoa bóng bẩy, không thêu dệt ý tình thơ mộng, nhưng đôi mắt ngời sáng tia vui mừng thành thật, nụ cười ấm dịu, đầy tình âu yếm xiết đỗi!


Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa
(cd).

Chuyện vui nổ dòn như bắp rang, họ hỏi thăm về Đà Lạt, nơi xa xôi họ chưa bao giờ có dịp đặt chân đến. Họ là những người dân chân lấm tay bùn, suốt đời quanh quẩn bên lũy tre mộc mạc, vui cảnh điền viên với vườn sắn nương khoai. Mấy ai phiêu du hải hồ ngang dọc tứ xứ. Đa số nông dân thích bám vào mãnh đất gia tiên, nơi cho họ ba tiếng khóc oa oa chào đời. Nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi cột chặt họ với gốc đa bụi chuối, lũy tre làng xanh um bóng mát. Có mồ mã ông cha an nghỉ, gần con sông lặng lẽ êm đềm uốn khúc, giữa hai bờ quê hương, cạnh cồn cát trắng và bầy trâu nghé chậm chạp về chuồng mỗi buổi hoàng hôn. Sao ngọt ngào vui vẻ ấm áp, đắm thắm tình thân và sóng sánh tình người đến thế không biết!



Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn.
(cd).



Ngày lễ Song Thất, tại Phủ *Hải Lăng đã tổ chức ngày “Cầu Ngư Thi Quán Quân”, nông dân muốn tranh tài: sẽ ghi tên dự thi, và hy vọng đoạt giải các bộ môn như: Cướp Cờ. Chèo thuyền. Đua trải. Hát giã trạo, vân vân: …


Thốt ra tới đâu dạ thiếp sầu tới đó
Cuộc chung tình chàng chưa rõ bấy lâu
Vì ai xê vô lật ván tháo cầu
Trai say dọi gái, gái thảm sầu dọi duyên
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
Thầy ơi chớ nói bao đồng
Một trăm thứ cọp có ông không bà (
cd)


Đánh cờ tam cúc. Bài thái. Bài ghế. Cờ tướng. Vật võ. Nam nữ thi các điệu hò đồng giao.


Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào!
(cd)


Thi chằm nón lá. Thi nấu một nồi cơm (chỉ có một nồi cơm nhỏ, nhưng Ban Giám khảo ấn định cho thời gian suốt ngày) củi được thay thế bằng năm cây mía tươi, và một lố hộp quẹt ở trên thuyền thúng. Họ vừa nấu cơm vừa bơi thuyền thúng.


Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
(cd)


Một cô đã đoạt giải nhất, vì cô ấy khôn ngoan, cứ ngồi tà tà róc mía ăn, cô ta phơi bã mía trên thuyền, chờ khô khô, rồi sau cùng cô ta đủng đỉnh nấu cơm, đã chín. Trong khi các nàng khác sợ không kịp giờ, đã vội đốt lửa “hơ” cho miá chảy ra, thì làm sao miá trở thành bả khô mà nấu cơm!


Em trao cho anh một nắm bắp rang
Anh trỉa làm sao cho mọc, thiếp với chàng trao duyên
Đồn bên em có miếng đất hoang
Mưa ba năm không ướt, hạn chín tháng nỏ khô
Đến đây anh trỉa, trỉa vô mọc liền
Thiếp trao cho chàng một nắm ngô rang
Chàng đúc nơi mô cho mọc thiếp thắp nhang mời về
Chỗ nào mà nắng không khô

Mà mưa không ướt đúc vô mọc liền (cd)

Trong tất cả cuộc thi, có cảnh đua thuyền là hào hứng rầm rộ trên sông nhất. Chiếc thuyền kết hoa lá đủ màu. Ngư thuyền dạn dày kinh nghiệm, bắp thịt no tròn rắn chắc, ngực nở vai u lực lưỡng, da đen dòn như bức tượng đồng. Ngư thuyền ở trần, mặc xà lỏn màu cuộn sát vào hai háng, nhìn từ xa như đóng khố, đầu họ chít khăn màu theo từng nhóm cuả thuyền có ghi số thứ tự dự thi. Trên bãi dưới bến, người đi xem đông hơn kiến, hai mươi cánh tay hùng dũng khua mái chèo khuấy nước đều đều lướt sóng vút vút, theo câu "hò dô ta… hò dô ta…" vang dậy góc trời. Dân chúng đứng trên bờ chen lấn nhau để giành chỗ tốt mà coi cho rõ. Họ ồn ào la hét inh ỏi mỗi khi có thuyền ai bơi về nhất. Thuyền nào thắng thì có nhiều tiếng reo hò la hét khàn cả cổ, vỗ tay rầm rầm. Thuyền nào thua thì buồn rầu kéo thuyền lật ngửa trở lại, họ lóp ngóp bơi vào bờ. Dân chài la chửi bạn chèo dở ỏm tỏi. Trên khán đài, tiếng tù-và thúc, trống giục liên hồi, phèn la dập dồn, bừng bừng niềm vui thích bốc cao.


Gá duyên chẳng đặng hội này
Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy… tôi chèo vô
(cd)

Quê ngoại Mười ở làng *Thuận Nhơn, không cách xa quê nội *Hưng Nhơn là mấy.
Cậu mợ Ấm Cửu Ổn qúy mến gia đình Mười không thể tả. Nhà cậu rất giàu có, ruộng vườn ông bà để lại cò bay thẳng cánh, nhìn hút tầm mắt tới đường chân trời. Cậu Ấm hào hoa, phong lưu đúng mực công tử, trong làng không ai mà không biết danh cậu, và kính phục tính hào phóng, rộng rãi với người trên kẻ dưới. Cậu yêu thương đùm bọc che chở người nghèo, tận tình giúp đỡ người sa cơ thất thế đến nơi đến chốn. Một hôm gia đình hai anh em ruột có ngày sum họp, cậu bảo người nhà cho giết bò, heo, gà, vịt… khoản đãi thân nhân. Cậu cho ông quản gia đi mời bà con họ hàng làng nước đến ăn mừng, hầu chia sẻ niềm vui ngọt bùi với gia đình em gái ruột ly hương của cậu đã trở về cố quốc. Cậu mợ Ấm có năm người con, nhưng đã chết hết hai, còn ba người là chị Hường, anh Trình, và chị Sao.

 

 




(*) Thơ Tình HOÀI HƯƠNG
(**) Tác giả: Cai Vĩnh có bản quyền đăng kí - Không "đạo văn”


 

Tình Hoài Hương

 

Ghi Chú:

 

1. Từ năm 1960  ->  đến năm 1975  - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi.
2. Những tấm hình qúy giá trong bài viết, không phải của tác giả Tình Hoài Hương.

Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhiếp ảnh gia đã post hình trên Wikipedia ;

(tôi xin mạn phép chuyển tải vào bài viết, ngỏ hầu có thêm phần phong phú hóa hình ảnh quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta).  Đa tạ!